Nưóc Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của văn hoá: Tàu, Ấn, Champa, Khmer, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng noí riêng:
Sống nghề làm ruộng đi buôn
Xăm mình thờ cúng nhuộm răng ăn trầu
Hai câu ca dao vô danh đã khắc họa rõ cái bản sắc riêng của mình. Khi nhà Hán xâm lăng và đô hộ thì họ áp đặt cái văn hoá, ngôn ngữ lên người Việt cổ. Những thái thú và các nhà cai trị người Hán tiêu biểunhư: Nhâm Diêm, Tích Quang, Sĩ Nhiếp…Chữ Hán bắt đầu được dùng và dần dần trở thành ngôn ngữchính thức của người Việt. Mở đầu cho chữ Hán và nền Hán học thống trị hàng ngàn năm. Các triều đaị phong kiến Việt Nam cho dù có đánh thắng được giặc Tàu về mặt quân sự nhưng vẫn cúc cung quy thuận về mặt tư tưởng, văn hoá, ngôn ngữ… Coi chữ Hán là mẫu mực, thánh hiền…Đến thể kỷ mười ba thì Hàn Thuyên đã mạnh dạn dùng chữ Nôm để sáng tác. Chữ Nôm là biến thể vay mượn từ chữ hán. Người Việt bình dân sử dụng hàng ngày nhưng triều đình và nho sĩ thì chê:”Nôm na mánh qué” nên không sử dụng. Đến thời Quang Trung thì chữ Nôm được trọng dụng. Quang Trung và triều đình kích thích tinh thần yêu nước, lòng tự tôn của dân tộc. Chữ Nôm dùng như ngôn ngũ chính thức song song với chữ Hán.
Thế kỷ mười bảy, khi các giáo sĩ phương Tây đến nước ta truyền giáo. Họ nhận thấy chữ Nôm hay chữ Hán đều khá rắc rối nên mới dùng ký tự Latinh chế ra một loaị chữ mới. Công đầu phải kể đến Alexandre De Rhodes ( phiên âm: Đắc Lộ) ! Trước ông cũng có nhiều vị thừa sai đã dùng mẫu tự Latinh để phiên âm chữ Hán ra tiếng Việt ( ví dụ:Vị thừa sai Francois Pina giảng đạo bằng tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt rành rẽ ) nhưng ông đã có công hệ thống hoá và hoàn chỉnh chữ mới cho người Việt. Ông đã viết cuốn:” Tự điển Việt-Bồ-La”… Tiếng Việt dần dần hình thành và phát triển.
Huỳnh Tịnh Của cũng là người có công lớn trong việc hoàn chỉnh tiếng Việt. Ông đã biên soạn pho:” Đaị Nam Quấc Âm Tự Vị”, sau ông có Trương Vĩnh Ký người đầu tiên phát hành báo tiếng Việt: “ Gia Định Thành Thông Báo” ... Đều là những nhà ngôn ngữ tài ba đã làm cho tiếng Việt phát triển và hoàn thiện.
Tính đến nay thì tiếng Vịêt cũng gần bốn trăm năm ( Kể từ khi các vị thừa sai dùng mẫu tự Latin để phiên âm ), từ Hán Việt vẫn chiếm một lượng lớn, phải nói là đa số, đó là hệ lụy của việc lệ thuộc quá lâu vào chữ Hán và văn hoá Hán.
Có một điều hầu như không mấy người biết là trong tiếng Việt còn có một số lớn từ ngữ vốn thoát thaitừ tiếng pàli. Trong quá trình truyền bá Phật Giáo: Giáo lý, kinh điển, luật luận từ dòng Nam truyền vào nước ta đã vô tình mang laị nhiều sắc thái mới cho văn hoá và ngôn ngữ. Nhiều tữ ngữ từ tiếng Pàli laị trở thành tiếng Việt như một từ thuần Việt. Nếu không có sự đối chiếu, so sánh của các tăng sĩ và các học giả dịch kinh Nam truyền thì chúng ta không thể nào biết được.
Ông Jean-neau –G (người Pháp) đã dịch tác phẩm “ Lục Vân Tiên” từ chữ Nôm sang chữ Việt đã viết khảo luận chứng minh tiếng Việt có nguồn gốc từ Aryen mà ngôn ngữ Aryen laị có nguồn gốc từ tiếng Pàli. Sau đây là những ví dụ rất cụ thể và xác đáng mà tăng sĩ Chúc Phú đã viết và trình bày. Bài viết có hạn nên chỉ sử dụng một số ít các ví dụ để chứng minh ( các ví dụ lấy từ bản nghiên cứu của thầy Thích Chúc Phú). Sau đây là một số từ ngữ mà tiếng Việt và tiếng Pàli viết, đọc, ý nghĩa giống như nhau:
Tiếng Việt Tiếng Pàli Nghĩa từ
Bá láp Palapa Chuyện tầm phào, vu vơ
Bát patta Đồ dùng đựng cơm, canh…
Bồ Bho Bạn thân
Bụt Bujjhati Người tỉnh thức, giác ngộ
Cạp cappeti Động từ chỉ việc ăn, cạp
Chái Chada Mái hiên
Đĩ Dhi Chỉ việc dâm, xấu hổ
Đanh đá Dandha Tánh gây khó, gây gỗ
Đù Du Tiếng lóng chửi thề
Ma Ma Người đã chết, ma
Nạt Nadati Động từ: la, quát
Nỏ No không, vd: nỏ biết
Phèn Phena Sắt lắng trong bùn, nước
Rực Ruci Toả ra ( vd: rực sáng)
Say Sayana Không còn tỉnh, biết
Thù lù Thùla To, thô
Vác Vaha Động từ: vác, mang
Vạc Vapati Động từ: vạc, cắt…
Tiếng Pàli vốn chỉ dùng ghi chép kinh Phật, nhất là ba tạng kinh, luật, luận Nikàya. Ấy vậy tiếng Việt đã vay mượn, sử dụng… Quả thật bất ngờ! chứng tỏ sự ảnh hưởng rất lớn của Phật Giáo Nam truyền cũng như văn minh, văn hoá của Ấn Độ và các nước thuộc dòng Nam truyền( Champa, Khmer, Thailand, Srilanca…) sử dụng kinh điển bằng ngôn ngữ Pàli. Sau này Phật giáo bắc truyền lấn lướt và chiếm thế thượng phong đẩy lùi những ảnh hưởng của Phật giáo Nam truyền. Ấy cũng là lý do mà đaị đa số người Việt chúng ta chỉ thấy sự ảnh hưởng của chữ Hán lên chữ Việt ( từ Hán Việt) mà không biết đến sự ảnh hưởng của tiếng Pàli lên chữ Việt, tiếng Việt!
Thực sự Phật giáo được truyền đến Việt Nam trước khi truyền sang Tàu. Chính sử ghi nhận Phật giáo được truyền đến Trung Hoa vào năm Vĩnh Bình ( Nhà Hán). Trong khi đó phật giáo đã đến nước Việt trước đó từ lâu. Vương Diễm nhà Nam Tề ( 497) đến Giao Chỉ thọ pháp với pháp sư Hiền. Ngài Phật Đà Bạt Đà La đến Giao Chỉ truyền đạo sau đó mới sang Tàu, thiền sư Khương Tăng Hội người Giao Châu sang Tàu truyền đạo…Trung tâm Phật giáo Luy Lâu rất danh tiếng trước khi Phật Giáo Bắc truyền chiếm thế thượng phong. Từ khi nhà Hán xâm lược và đô hộ thì văn hoá Hán, chữ Hán và phật giáoBắc truyền trở thành chủ yếu! Ngàn năm đô hộ và đồng hoá, nhiều lần huỷ diệt văn hoá Việt ( thời nhà Minh) nhưng người Việt vẫn bền bỉ sống còn, văn hoá Việt, tiếng Việt vẫn tồn tại. Chính nhờ nền văn hoá với một bản sắc riêng mà dân tộc còn đến hôm nay! Nước Việt, văn hoá Việt, tiếng Việt… hôm nay có nhiều thử thách, nhiều kẻ có mưu đồ đồng hoá hay phế bỏ nhưng chắc chắn nó sẽ vượt qua. Lịch sử đã chứng minh, ngàn năm đô hộ của phưong Bắc còn chưa làm nổi thì một nhúm người vong bảnthì làm nên trò trống gì!
Bình Luận Bài Viết