1). Thành trì và các cung điện:
Trên đỉnh núi Chúa Tu Di có thành Tam Thập Tam Thiên của cung Trời Đao Lợi vô cùng rộng lớn, mỗi bề khoảng tám vạn do tuần (Theo quyển Tự Điển Phật Học của Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách thì 1 do tuần = từ 15 đến 20 cây số) (Tạm lấy 1 do tuần =18 cây số, ta có: 80,000 x 18 = 1,440,000 cây số), thành cao một trăm do tuần (100 x 18 = 1,800 cây số), thành này có bảy lớp, trên bảy lớp thành là các lâu đài. Bên trong lại có thành khác bảy lớp nhỏ hơn, mỗi chiều rộng khoảng sáu vạn do tuần (60,000 x 18 = 1,080,000 cây số). Thành bên trong cũng cao một trăm do tuần, và trên bảy lớp thành cũng có vô số lâu đài.
Các lớp thành ngoài và thành trong cứ cách khoảng năm trăm do tuần (500 x 18 = 9,000 cây số) lại có một cửa có chiều cao khoảng sáu mươi do tuần (60 x 18 = 1,080 cây số), và chiều rộng khoảng ba mươi do tuần (30 x 18 = 540 cây số). Giữa hai lớp thành trong và ngoài vừa nói là Long cung ngang dọc sáu nghìn do tuần (6,000 x 18 = 108,000 cây số) (Ghi chú: các con số chỉ là ước khoảng).
Tại trung tâm vòng thành trong là cung Thiện Kiến rất lớn, trong đó có một đại phòng có tên là Thiện Pháp đường mỗi bề rộng khoảng một trăm do tuần (100 x 18 = 1,800 cây số). Thiện Pháp đường tạo nên bởi vàng ròng, trên phủ lưu ly, dưới mỗi gốc cột trong sảnh đường có Pháp toà cho Thiên Đế ngự rộng một do tuần (1 x 18 = 18 cây số) do bảy báu tạo thành. Hai bên Pháp tòa có: mười sáu Pháp tòa khác, Chư Thiên thường vào phòng này để suy tư về diệu pháp và cảm thọ niềm vui thanh tịnh, nên được gọi là Thiện Pháp đường.
Phiá Bắc cung Thiện Kiến có cung điện Đế Thích, ngang dọc một nghìn do tuần (1,000 x 18= 18,000 cây số =18000/1.6 = 11,250 dặm (mile)).
Phiá Đông cung Thiện Kiến có vườn Thô Sáp lớn, trong vườn có hai tảng đá to, xốp, mềm có tên là Hiền và Thiện, mỗi tảng lớn mỗi bề khoảng năm mươi do tuần (50 x 18 =900 cây số). Trong vườn còn có: ao Nan Đà nước luôn luôn trong xanh, bốn phiá đều có bậc thang đi xuống ao, khi vào vườn này thì thân thể trở nên thô cứng.
Phiá Nam cung Thiện Kiến là vườn Họa Lạc lớn (Có sách ghi là vườn Trú Dạ), trong vườn cũng có hai tảng đá tên là Họa và Lạc, cũng có ao Nan Đà; trong vườn còn có cung điện nghỉ mát rộng mỗi chiều khoảng năm trăm do tuần (500 x 18 = 9,000 cây số), khi vào vườn này, tự nhiên có những nét vân màu sắc sặc sỡ trên thân thể, lúc ấy lấy đó làm vui thích.
Phiá Tây cung Thiện Kiến là khu vườn tên Tạp, cũng có hai tảng đá tên Thiện Kiến và Thuận Thiện Kiến; đặc biệt, trong vườn này có cây Trú Độ cao lớn, thân cây to bảy do tuần (7 x 18 = 126 cây số), cao 100 do tuần. Cây đại thụ này luôn luôn có hoa lá sum sê như vầng mây báu lớn, cành lá xòe ra rộng năm mươi do tuần; tại cây này có vị Thần tên Mạn Đà trú tại đây, thường trỗi nhạc mà tự vui, nên mới có cái tên là cây Trú Độ. Kế bên cây Trú Độ, có cung điện nghỉ mát. Đế Thích cho phép các Thiên nữ cùng các Thiên tử dạo chơi tập thể trong vườn, nên được gọi là vườn Tạp; vườn này các vị Trời đều được vào hết, ví dụ như vị Trời bậc cao, vị bậc trung, vị bậc thấp đều có thể vào, nhưng ba vườn kia vị Trời bậc thấp không được vào.
Phiá Bắc cung Thiện Kiến và cung Đế Thích có vườn Đại Hỷ (Có sách ghi là vườn Nan Đà), trong vườn cũng có hai tảng đá tên Hỷ và tên Đại Hỷ; trong vườn cũng có cây Trú Độ và cung điện nghỉ mát, khi vào vườn này thì vô cùng vui vẻ nên gọi là vườn Đại Hỷ.
Ngoài ra còn có các cung điện của các chư Thiên Đao Lợi ngang dọc, xen kẽ rất nhiều. Có cái mỗi chiều một nghìn do tuần (1,000 x 18 = 18,000 cây số), có cái chín trăm, có cái tám trăm v.v…, cho tới cung điện nhỏ nhất mỗi chiều một trăm do tuần (100 x 18 = 1,800 cây số). Lại còn có các cung điện của các Tiểu Thiên ngang dọc mỗi chiều một trăm do tuần, có cái chín mươi, tám mươi, bảy mươi v.v…, cho đến cái nhỏ nhất mỗi bề mười hai do tuần (12 x 18 = 216 cây số=135 dặm Anh).
Nên biết rằng, bảy lớp thành ngoài và bảy lớp thành trong đều tạo bởi bảy báu là vàng, bạc, xích châu, mã não, lưu ly, pha lê và xà cừ (những thứ này và tất cả những gì thuộc về các cõi Trời, mắt người thường không thể nhìn thấy). Mỗi cửa của thành đều có năm trăm Quỷ Thần canh giữ, phòng thủ, bảo vệ. Tất cả các lâu đài, cung điện, đều có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màng lưới, bảy lớp hàng cây giáp vòng, và các thứ này đều trang trí bằng bảy báu.
Ngoài ra, tám tảng đá trong bốn vườn đều lớn cỡ mỗi chiều năm mươi do tuần, cấu tạo cũng bởi bảy báu, nhưng xốp lại mềm mại như áo trời. Trong các ao, có các thứ hoa đủ các màu sắc đẹp đẽ, mỗi hoa to như bánh xe, cọng (cuống) hoa như trục xe. Các hoa tiết ra nước trong trắng ngọt, và có mùi thơm kỳ thú phảng phất. Chung quanh lâu đài, cung điện, trên ao, trong vườn đều có các loài chim kỳ lạ như chim Cưu, chim Nhạn, chim Uyên Ương v.v… cùng ríu rít hót vang, hòa ca vui vẻ, đúng là cảnh thiên thai Tiên Trời vậy.
Từ cung Thiện Kiến, có những con đường dẫn đến cung Đế Thích, những con đường đến vườn Thô Sáp, đến vườn Họa Lạc, đến vườn Tạp, vườn Đại Hỷ. Cũng từ cung Thiện Kiến có những con đường dẫn đến các ao, dẫn đến các tảng đá, đến các cây Trú Độ, đến các cung điện nghỉ mát. Cũng có những con đường dẫn đến các lâu đài, các cung điện chư Thiên, Tiểu Thiên, cung Long Vương v.v…
2). Đặc điểm của Chư Thiên:
Chư Thiên Đao Lợi nói chung có các nét đặc điểm sau đây:
01- Bay đi lại không trở ngại gần xa.
02- Thân không có da, thịt, xương, máu.
03- Không có tiểu tiện đại tiện.
04- Không bao giờ mỏi mệt.
05- Thiên Nữ không sinh đẻ con cái.
06- Thiên nhãn, thiên nhĩ, nhìn xa, nghe xa không bị trở ngại.
07- Thân thể phát ra ánh sáng.
08- Thân thể có màu sắc tuỳ ý muốn (7 màu: Vàng, lửa, xanh, đỏ, lục, đen, trắng).
09- Thân cao một do tuần (1 x 18 = 18 Kilomet). (Có sách ghi thân hình cao hơn nửa dặm)
10- Sống rất lâu, thọ một nghìn tuổi trời (bằng 365,000 năm ở trần gian).
11- Có hôn nhân giữa các Thiên-Tử và Thiên Nữ.
12- Quần áo, thức ăn, thức uống v.v… khi nghĩ đến liền có ngay.
13- Không phải làm việc cực khổ như ở trần gian.
14- Không biết sợ nóng lạnh.
15- Thiên-tử khi mạng sống sắp hết có 5 điềm ứng trước (Bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 530), đó là:
– Tràng hoa đội trên đầu héo đi.
– Áo choàng dính bụi dơ bẩn
– Thân mất mùi thơm, lại có mùi hôi.
– Các Thể nữ không vây quanh mà bỏ đi. (đa thê?)
– Không còn thích thú tòa ngồi nữa.
Theo Bộ Trường A Hàm, quyển 2, trang 404 đến 407 ghi: Khi một chúng sinh hành thiện về thân khẩu ý, sau khi chết đi được sinh đến cõi trời Đao Lợi bằng hóa sinh. Vị Thiên sơ sinh ấy cũng như đứa bé hai ba tuổi ở cõi trần gian, nhưng vị ấy tự nhiên hóa sinh ra và hiện ngồi trên đầu gối của một vị Thiên. Vị này thấy Thiên nhi ngồi trên đầu gối mình thì nói: “Đây là con trai ta, (hoặc) đây là con gái ta”. Thiên nhi này do hạnh nghiệp và phúc báo, trí huệ tự nhiên phát sinh ngay sau khi sinh ra không lâu, nên liền nghĩ: “Ta do đã làm gì mà được sinh đến cõi này?” Rồi lại nhớ và nghĩ tiếp: “À phải rồi, xưa kia ta ở nhân gian đã làm điều lành về thân miệng ý, nay ta được sinh đến cõi này”.
Sau khi chào đời không lâu, thì Thiên nhi cảm thấy đói muốn ăn, tự nhiên trước mặt liền có thức ăn đựng trong báu vật. Thiên nhi dùng tay lấy thức ăn bỏ vào miệng ăn, khi ăn hết rồi, tiêu hết cũng như bỏ thức ăn vào lửa, cháy tiêu ngay. Ăn xong, lại có cảm giác khát, tự nhiên có nước cam lộ đựng trong báu vật ở ngay trước mặt. Thiên nhi cầm lấy mà uống, uống xong, cũng như bỏ bơ vào lửa, tiêu mất.
Ăn uống xong, không còn đói khát nữa, thân thể tự nhiên trở thành cao lớn, vị ấy trở thành Thiên thiếu niên (Tiểu Thiên). Vị ấy cùng với các Thiên thiếu khác đi đến ao, xuống tắm rửa, và tự thấy thoải mái vui thích; tắm xong, vị Thiên thiếu lên bờ, đến cây Hương, lấy hương xoa vào thân thể, đến cây Kiếp Bối, lấy y phục mặc vào; xong, vị ấy đến cây Trang Sức, cây Tràng Hoa, lấy đồ trang sức cho thân thể, lấy tràng hoa đội lên đầu tóc. Vị Thiên thiếu lại đến cây Khí Cụ lấy báu vật đeo vào thân thể, rồi đến vườn cây hoa qủa hái lấy qủa trái ưa thích để ăn cho tới khi chán mới thôi; sau chót, vị Thiên thiếu đến chỗ Nhạc Khí lấy nhạc cụ mà vị ấy ưa thích để chơi hòa tấu và ca hát vui vẻ.
Đàn ca chán rồi, vị Thiên thiếu ấy đến khu vườn khác trông thấy vô số Thiên Nữ, Thiên thiếu nữ đang ca hát, nhảy múa, cười nói, đùa giỡn vui vẻ; lúc đó vị Thiên thiếu ấy thấy thế sinh tâm thích thú, đắm nhiễm, quên hết phương hướng. Khi mới hóa sinh ra, vị ấy thường nghĩ: “Ta làm điều gì mà được sinh đến cõi này?” Sau khi du ngoạn các vườn, vị ấy quên hết tâm niệm ấy, do đó có việc Thể Nữ theo hầu Thiên Tử nơi cõi trời Đao Lợi.
3). Vua Đế Thích hưởng lạc:
Khi Đế Thích muốn đến vườn Thô Sáp chẳng hạn, thì liền nghĩ đến các đại Thiên của Tam thập Tam Thiên, liền lúc ấy, các đại Thiên biết được, họ liền trang sức, rồi ngồi xe báu có vô số Thiên chúng vây quanh đến trước Đế Thích. Đồng thời Đế Thích cũng nghĩ tới các Thiên Vương khác, và nghĩ đến Long Vương. Ngay lúc ấy các Thiên Vương biết ý muốn của Đế Thích, liền trang sức, rồi ngồi xe báu có vô số Thiên chúng vây quanh đến trước Đế Thích.
Cùng lúc, Long Vương cũng biết ngay Đế Thích đang chờ mình, Long Vương liền biến hoá ra ba mươi hai cái đầu; mỗi cái đầu có bảy cái răng ở hàm dưới, mỗi cái răng có nhiều ao tắm, mỗi ao tắm có bảy đóa hoa sen lớn, mỗi hoa sen có nhiều cánh xoè ra. Trên mỗi cánh hoa có bảy Ngọc Nữ đánh trống, thổi kèn, thổi sáo, đánh đàn, v.v… trỗi nhạc ca múa; sau khi biến hóa xong, Long Vương liền đến trước Đế Thích.
Bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân (Đế Thích) trang sức các thứ báu như Anh-Lạc, rồi ngồi trên đầu Long Vương chỗ bậc nhất; tiếp theo mười sáu vị Thiên Vương theo thứ tự mà ngồi trên đầu Long Vương ấy, lúc bắt đầu đi, các Thiên Nữ cùng chơi nhạc Trời ca múa trên cánh hoa sen.
Khi Đế Thích cùng các Thiên Vương, Thiên chúng đến vườn Thô Sáp, thì có cơn gió thổi làm cho cánh cửa vườn tự nhiên mở ra. Đồng thời cũng có cơn gió thổi, làm cho sạch sẽ vườn, và các loại hoa rải khắp. Vào vườn đi thẳng đến chỗ tảng đá, Đế Thích xuống ngự trên một chỗ, chư Thiên cũng theo thứ tự mà ngồi.
Như đã nói ở trên, vườn Thô Sáp, vườn Họa Lạc và vườn Đại Hỷ, một số chư Thiên tuy thấy vườn, nhưng không được vào. Một số chư Thiên được thấy vườn, được vào, nhưng không được hưởng ngũ dục. Một số khác được thấy, được vào, và được hược hưởng ngũ dục, tại sao có sự khác biệt như thế? Vì phúc đức và hạnh nghiệp tạo ra trước kia không đồng nhau mà thành ra như vậy.
Đế Thích và Thiên chúng dạo vườn và hưởng ngũ dục từ 1 tới 7 ngày rồi trở về cung.
Nên biết, Đế Thích có mười sáu vị đại Thiên Tử (giống như các quan Đại thần của Vua ở trần gian ngày xưa) theo kề cận.
4). Vua Rồng nổi giận:
Khi Đức Phật đang ở đạo tràng Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ, đêm ấy vua Trời Đế Thích đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi qua một bên thưa:
– Như Lai nói: “Phàm Phật ra đời vì năm việc là chuyển pháp luân (thuyết Phật pháp), độ cha mẹ, người không tin khiến lập lòng tin, người chưa phát tâm bồ đề khiến phát tâm bồ đề, ở trong ấy sẽ truyền trao Phật quyết (phó chúc truyền pháp)”, nay Phật mẫu từ cõi Trời Đâu Suất đến cõi Đao Lợi muốn được nghe pháp, Thế Tôn thầy của Trời Người nên đến cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp.
Khi ấy: vua Trời Đế Thích thấy Phật lặng yên nhận lời thỉnh cầu thì vui mừng cúi lạy rồi biến mất.
Hôm sau, khi Phật đang thuyết pháp cho năm trăm đệ tử trong đại giảng đường, thì tại cung Long Vương có hai Long Vương Nan Đà và Ưu Bàn nghĩ: “Các Sa Môn hay bay trên ta, ta phải làm cho họ không bay được, không di chuyển được”. Rồi hai Long Vương to lớn ấy phát dữ, nổi giận phóng gió lớn khiến giông tố nổi lên, đất tung đá bay, trời đất mịt mù, sấm chớp giăng đầy khắp chốn. Tôn-giả A Nan thấy thế bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, không hiểu sao hôm nay trời đất sấm chớp gió cuốn mịt mù khác hẳn mọi khi?
Phật bảo:
– Đây là hai Long Vương Nan Đà và Ưu Bàn nghĩ rằng các Sa Môn khống chế hư không vì thường bay trên đầu họ nên họ nổi giận phá không cho Sa Môn làm điều đó nữa.
Khi đó Tôn giả Đại Ca Diếp đứng dậy cúi đầu vái Phật và thưa:
– Con xin được đi đánh nhau với họ.
Phật bảo:
– Hai Long Vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa, thầy ngồi xuống đi.
Tiếp theo là các Tôn giả A La Luật, Ly Việt, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, Ưu Đà Di, Ba Kiệt v.v…, mỗi người lần lượt đứng dậy xin đi hàng phục hai Rồng dữ, đều bị Phật từ khước không cho.
Bấy giờ Tôn giả Đại Mục Kiền Liên đứng dậy vái Phật và thưa:
– Con muốn đi hàng phục hai Rồng dữ, xin Thế Tôn cho phép con đi.
Phật bảo:
– Thầy đủ sức hàng phục Rồng dữ, nhưng thầy phải giữ tâm ý chớ khởi loạn tưởng, vì hai Rồng kia hung dữ đủ sức xúc nhiễu thầy.
Khi được Phật chấp thuận, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên cúi đầu lễ Phật rồi ngồi xuống nhập định, chỉ trong khoảnh khắc liền biến mất khỏi đạo tràng; lúc ấy hai Rồng lớn có bảy đầu đang bay hung bạo quanh núi Tu Di khiến cho trời đất mịt mù như thế. Tôn giả Muc Kiền Liên hóa làm đại Long Vương có mười bốn đầu, to gấp hai lần hai Long Vương kia, lượn quanh núi Tu Di nhanh bằng hai lần và phun khói ầm ầm ngay phiá trên hai Rồng kia. Thấy thế, hai Rồng sinh lòng sợ hãi, nhưng chưa chịu khuất phục mà muốn thử tài xem thế nào; hai Rồng bèn lấy đuôi quậy trong biển lớn, lấy nước rảy lên khắp cõi Đao Lợi, nhưng không trúng đại Rồng. Khi ấy đại Rồng cũng lấy đuôi quẫy trong biển lớn, lấy nước rảy khắp và trúng vào hai Rồng. Khi đó hai Rồng bực tức giận dữ tột cùng, nổi sấm sét vang rền, phun khói vũ bão, giông tố rung chuyển trời đất. Tôn giả nghĩ: “Nếu ta dùng sấm chớp giông tố chiến đấu với họ chỉ hại cho cõi Trời và Người, nay ta hóa hình cực nhỏ để chiến đấu”. Nghĩ vậy, Tôn giả liền hóa hình cực nhỏ chui vào miệng Rồng rồi chui ra một lỗ mũi, rồi lại chui vào lỗ mũi kia ra lỗ tai, chui trở lại lỗ tai ra lỗ mắt, chui trở lại lỗ mắt ấy rồi ra lỗ mắt kia. Đã ra khỏi lỗ mắt kia rồi đi trên lông mi của Rồng.
Khi ấy hai Long Vương hết sức sợ hãi và nghĩ: “Trước đây đại Long Vương này to lớn gấp mấy chúng ta, có số đầu gấp hai chúng ta, bay nhanh cũng gấp hai, lại rảy nước trúng thân chúng ta. Nay lại biến còn nhỏ tí chui vào miệng ra mũi, vào mũi ra tai, vào tai ra mắt, vào mắt này ra mắt kia, rồi lại đi trên lông mi ta; đại Long Vương này có đại oai lực, chúng ta chẳng thể bằng được. Loài Rồng chúng ta bốn loại: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh, nhưng không Rồng nào vượt được chúng ta; nay chúng ta chắc chết mất, không biết đại Long Vương này ở đâu mà có uy lực như thế?”
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên biết hai Long Vương suy nghĩ và sợ hãi, liền trở lại hình bình thường đi trên mi mắt Rồng. Hai Rồng trông thấy Tôn giả, tự nói với nhau: “Đây là Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, chẳng phải đại Long Vương. Thật là kỳ lạ, vị này có thể thi tài với chúng ta!” Long Vương Nan Đà nói:
– Tôn giả, sao lại xúc (quấy) nhiễu chúng tôi như thế? Muốn răn dạy chúng tôi điều gì?
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo:
– Các ông nghĩ rằng: “Làm sao mà Sa Môn trọc đầu lại bay trên đầu ta, chế ngự hư không của chúng ta, nay ta chế ngự Sa Môn”. Có phải thế không?
Long Vương trả lời:
– Đúng thế, Tôn giả.
– Các ông nên biết núi Tu Di này là đường đi của Chư Thiên chẳng phải chỗ riêng của các ông.
– Cúi mong Tôn giả tha thứ, từ nay về sau, chúng con sẽ không dám xúc nhiễu, không dám nổi loạn nghĩ ác nữa. Cúi mong Tôn giả nhận chúng con làm đệ tử.
– Các ông chớ có quy y ta, các ông quy y nơi ta đã quy y.
– Chúng con hôm nay xin quy y Như Lai.
– Các ông không thể quy y ở đây, các ông nên cùng ta đến thành Xá Vệ, chỗ Thế Tôn để quy y.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên dẫn hai Long Vương nhanh như co tay từ núi Tu Di đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn, bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số chúng nghe. Tôn giả bảo hai Long Vương:
– Các ông nên biết, các ông không thể để thân hình này mà đến chỗ Phật.
Long Vương nói:
– Đúng thế Tôn giả.
Hai Long Vương liền hóa hình người dung mạo đẹp đẽ. Tôn giả Đại Mục Kiên Liên đến chỗ Phật cúi đầu lễ Phật rồi bảo hai Long Vương:
– Nay đúng lúc, các ông tiến lên.
Hai Long Vương liền tiến lên, chắp tay thưa:
– Chúng con tên Long Vương Nan Đà và Ưu Bàn xin Thế Tôn chấp thuận cho chúng con được quy y, thọ trì năm giới trong giáo pháp của Như Lai.
Thế Tôn búng ngón tay chấp thuận. Hai Long Vương bèn vái lễ rồi ngồi xuống nghe pháp…
5). Đức Phật lên Trời Đao Lợi:
Thời ấy có một dạo, Đức Phật thấy rằng: “Bốn chúng có nhiều giãi đãi, chẳng thích nghe pháp, cũng chẳng cầu điều chưa được khiến được, điều chưa đắc khiến đắc, Ta nên làm cho bốn chúng khát ngưỡng pháp”. Do đó Đức Phật chẳng báo cho ai biết, như khoảng thời gian duỗi cánh tay Ngài biến mất khỏi Tịnh Xá Kỳ Hoàn đến cõi Trời Đao Lợi. Khi ấy Vua Trời Đế Thích xa thấy Thế Tôn đến liền dẫn Thiên chúng đến rước, cúi lạy, thỉnh Đức Phật đến tòa ngồi và nói rằng:
– Kính chào Thế Tôn viếng cõi Trời ba mươi ba, xin mời Ngài ngồi lên pháp tòa.
Khi ấy Đức Phật tự nghĩ: “Ta sẽ dùng sức thần túc ẩn hình, không cho mọi người thấy Ta và hóa thân to lớn”. Do đó Ngài ngồi kiết già có thân hình kín khắp tảng đá pháp tòa mỗi chiều một do tuần (18 cây số) trong Thiện Pháp đường.
Ngay khi ấy, mẫu thân Phật, bà Ma Gia dẫn các Thiên nữ đến, cúi đầu chào, ngồi qua một bên và nói:
– Mong mỏi nhớ nghĩ Phật, hôm nay Phật mới đến, thật là đại hạnh.
Đế Thiên Đế Thích, Chư Thiên đều vái và an vị hai bên Phật. Bấy giờ Thế Tôn thăm hỏi Phật mẫu rồi thuyết diệu pháp cho Phật mẫu và chúng Thiên nghe.
Khi đó bốn chúng ở thế gian không thấy Phật bèn đến hỏi Tôn giả A Nan là Thị giả của Phật, nhưng Tôn giả A Nan cũng không biết Phật ở đâu; hai Vua Ba Tư Nặc và Ưu Điền cũng đến chỗ Tôn giả A Nan hỏi nhưng đều được trả lời không biết như thế, Vua Ưu Điền sinh sầu lo và phát bệnh, quần thần hỏi:
– Đại Vương bệnh gì vậy?
Vua trả lời:
– Ta sầu lo vì không thấy Như Lai nên thành bệnh, chắc là ta chết mất thôi.
Quần thần bàn với nhau: “Nếu chúng ta làm tượng của Đức Phật thì chắc là vua sẽ hết buồn và khỏi bệnh”. Bàn như vậy xong, họ bèn tâu Vua:
– Chúng hạ thần có thể làm tượng Phật, và có thể cung kính lễ bái tượng Phật cũng như lễ bái Phật vậy, xin Ngài chấp thuận cho thực hiện.
Vua nghe nói vui mừng bảo quần thần:
– Ta đồng ý làm tượng Phật bằng gỗ thơm, gỗ Ngưu đầu chiên đàn, cao năm thước, và phải có thợ khéo làm thật giống Đức Phật mới được.
Các quan đại thần liền cho tuyển người giỏi nghề điêu khắc, cho người đi kiếm gỗ quý, và chỉ trong ít ngày là hoàn tất tượng giống Phật như hệt; Vua Ba Tư Nặc nghe nói: “Vua Ưu Điền cho làm tượng Phật bằng gỗ thơm Chiên đàn”, bèn ra lệnh các quan cho đúc ngay một tượng cũng lớn cùng cỡ, nhưng lại bằng vàng ròng. Ông nghĩ rằng: “Thân Như Lai quý hơn Thiên kim, nên phải làm bằng vàng ròng mới xứng”; bởi vậy, thời Phật còn tại thế đã có hai tượng Phật quý giá như thế.
Rồi một hôm khác, bốn chúng lại đến gặp Tôn giả A Nan và nói:
– Chúng tôi khát ngưỡng nhớ mong Đức Thế Tôn, muốn được thấy mặt Thế Tôn, và muốn được nghe pháp của Thế Tôn, xin Tôn giả làm cách nào tìm kiếm Đức Thế Tôn cho chúng con.
Tôn giả A Nan nói:
– Chính tôi cũng mong thấy Ngài như quý vị, chẳng biết Thế Tôn đang ở đâu nữa; nhưng nay chúng ta hãy cùng nhau đến chỗ Tôn giả A Na Luật để hỏi, vì Tôn giả có Thiên nhãn bậc nhất có thể tìm kiếm thấy Thế Tôn đang ở đâu.
Tôn giả A Nan và bốn chúng (Tăng, Ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ) đến gặp Tôn giả A Na Luật và thưa:
– Nay bốn chúng đến chỗ tôi hỏi: “Hiện nay đức Thế Tôn ở đâu?” xin Tôn giả dùng Thiên nhãn xem Phật ở chỗ nào cho mọi người được biết?
Tôn giả A Na Luật bảo mọi người:
– Các vị hãy chờ một chút, tôi sẽ quán sát Như Lai.
Tôn-giả A Na Luật liền nhập định, coi hết cõi Ta Bà không thấy, Tôn giả lại coi khắp các tầng Trời cũng chẳng thấy; cuối cùng coi hết Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cũng vô tăm tích của Phật. Thất vọng, Tôn-giả xuất định và nói:
– Tôi xem từ Địa ngục tới hai mươi tám tầng Trời (6 Dục giới, 18 Sắc giới, và 4 Vô Sắc giới), cho đến Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới (Giải Ngân hà của chúng ta: Milky Way) cũng chẳng thấy Phật đâu cả!
Mọi người thất vọng trở về với niềm thắc mắc: “Phật ở đâu, hay Ngài đã nhập Niết Bàn rồi?”
Bấy giờ thời gian trải qua đã gần ba tháng, đức Phật nghĩ: “Bốn chúng ở trần gian không thấy Ta đã lâu, có lòng mong mỏi, Ta nên bỏ thần túc khiến đệ tử có thể thấy Ta ở đây”, nghĩ rồi, Ngài liền xả thần túc. Ngay đêm đó có một vị Trời đến mách với Tôn giả A Na Luật rằng: “Thế Tôn đang ở cõi Trời Đao Lợi”. Tôn giả liền dùng Thiên nhãn nhìn, qủa thật Thế Tôn đang ở trong Thiện Pháp đường của cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp, bèn thông báo cho Tôn giả A Nan để thông báo lại cho tứ chúng biết. Tôn giả A Nan hỏi Tôn giả A Na Luật:
– Ai là người có thể đến cõi Trời Đao Lợi để thăm hỏi Thế Tôn?
Tôn giả A Na Luât đáp:
– Thần túc đệ nhất là Tôn giả Đại Mục Kiền Liên có thể đi thăm Thế Tôn.
Khi ấy Tôn giả A Nan cùng bốn chúng đến gặp Tôn giả Đại Mục Kiền Liên và nói:
– Thưa Tôn giả, chúng tôi không thấy Thế Tôn đã lâu và Tôn giả A Na Luật nói Thế Tôn đang ở cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp. Nếu không mệt mỏi, xin Tôn giả hãy vì chúng tôi lên cõi Trời thứ Ba mươi ba thay cho chúng tôi để thăm hỏi Đức Thế Tôn, cũng xin Tôn giả thưa rằng: “Chúng tôi không đủ thần lực bay lên cõi Trời để kính lễ Đức Thế Tôn, nhưng trong lòng chúng tôi rất mong mỏi được gặp Ngài; còn các vị Trời có đủ thần lực bay xuống nhân gian, cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng thương xót trở lại cõi trần gian”.
Khi ấy Tôn giả Đại Mục Kiền Liên im lặng, bốn chúng biết Tôn Giả nhận lời rồi, liền vui vẻ làm lễ ra về chờ đợi; khi mọi người đi khỏi, Tôn Giả liền nhập định; nhập định rồi, chỉ trong khoảnh khắc như người lực sĩ duỗi cánh tay, Tôn Giả biến mất khỏi chỗ ngồi tại Đạo tràng Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ và hiện ra chỗ gần tảng đá pháp tòa trong Thiện Pháp đường ở cõi Trời thứ ba mươi ba.
Bấy giờ, đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số Chư Thiên và quyến thuộc vây quanh nghe, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên trông thấy Thế Tôn liền hân hoan vui mừng và nghĩ rằng: “Hiện nay Đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng Chư Thiên vây quanh không khác gì chúng hội ở Diêm phù đề thuộc cõi trần”. Khi ấy, Đức Phật liền biết được ý nghĩ cuả Tôn giả, bèn nói:
– Này Mục Kiền Liên: khi Ta muốn thuyết pháp cho Chư Thiên nghe, Ta không phải dùng thần lực để khiến họ đến hay khiến họ trở về, mà là tuỳ tâm họ muốn đến nghe hay muốn trở về.
Lúc ấy Tôn giả đến vái lễ Đức Phật và nói:
– Thưa Thế Tôn, trong hàng các vị Trời ở đây, có vị đã từng theo Thế Tôn nghe thuyết pháp tại Diêm phù đề trước kia. Các vị ấy đối với Phật Pháp có lòng tin thanh tịnh, nên sau khi mạng chung được sinh đến cõi này.
Đức Phật bảo:
– Đúng thế, đúng như lời thầy nói.
Khi ấy Vua Trời Đế Thích ở trong hội, thấy Thế Tôn và Tôn giả khen ngợi Chư Thiên, liền thưa:
– Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Tôn giả, trong Chư Thiên ở đây, một số là những vị từ đời trước đã từng nghe chính pháp. Đối với Phật, Pháp, Tăng thành tựu lòng tin thanh tịnh, không biến hoại, thành tựu Thánh giới, nên khi thân hoại mạng chung (chết) ở cõi Trần, được sinh đến cõi nàỵ.
Lúc đó có một vị Trời từ toà đứng dậy chắp tay thưa:
– Thưa Đức Thế Tôn, con được thành tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Thế Tôn nên được sinh đến đây.
Rồi có vị nói:
– Con có lòng tin thanh tịnh không lay chuyển đối với Pháp của Đức Thế Tôn nên được sinh tới đây.
Có vị nói:
– Con được lòng tin thanh tịnh kiên cố đối với Thánh Tăng nên được sinh tới đây.
Có vị nói:
– Con được thành tựu Thánh giới nên được sinh đến cõi này.
Như thế, chục vị Trời, trăm vị Trời, vô số vị Trời đến trước Thế Tôn, mỗi vị tự thuật trường hợp của mình, rồi đều biến mất trong khoảnh khắc.
Lúc đó Tôn giả Đại Mục Kiền Liên biết Chư Thiên đã đi khỏi, liền thưa với Đức Phật những điều mà bốn chúng tại Diêm phù đề thỉnh cầu; sau khi nghe Tôn giả trình bày, Đức Phật bảo Tôn giả:
– Thầy hãy trở về nói với đại chúng rằng: “Bảy ngày nữa Ta sẽ trở lại thành Tăng ca Xá, nơi cây Ưu đàm bát, phía bên ngoài cửa ngoài” (Có sách ghi: Sau bảy ngày nữa, Như Lai đến nước Tăng Ca Thi bên ngoài ao nước lớn).
Vâng lời Phật, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên sau khi vái lễ Phật, liền trở về; chỉ trong khoảnh khắc, Tôn-giả biến mất khỏi cõi Trời Đao Lợi, hiện về tịnh xá Cấp Cô Độc, và thông báo với đại chúng như lời Đức Phật đã nói.
Bốn chúng nghe Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói đều vui mừng vô kể, và việc này nhanh chóng truyền đến các nước; các Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ, Vua Ưu Điền nước Bạt Kỳ, Vua Ngũ Đô nước Ác Sinh, Vua Ưu Đà Diên nước Nam Hải, và Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt, cùng các Quan đại thần và vô số dân chúng đều đến trước hẹn để đón rước Thế Tôn.
Đúng hẹn bảy ngày, sau khi Đức Phật thuyết pháp ba tháng, độ cho Phật mẫu và vô số Chư Thiên sạch hết cấu uế, vô số Thiên nữ được pháp nhãn thanh tịnh. Ngài liền từ tòa đứng dậy đến đỉnh núi Tu Di đi trên đường vàng, bên phải có Phạm Thiên Vương đi trên đường bạc, bên trái có Đế Thiên Đế Thích đi trên đường lưu ly, và vô số chư Thiên, Long, Thần theo sau có nhạc, ca và rải muôn hoa trời rực rỡ…
Năm vua, các quan đại thần, tứ chúng, và muôn ức dân chúng nghênh đón đều quỳ lạy Đức Thế Tôn từ trên không từ từ đặt hai bàn chân xuống đất, lúc ấy tam Thiên đại Thiên thế giới sáu lần chấn động (Động đất); chính vào lúc này, gọi hội này là “Thiên Hạ Xứ Hội” (Bộ Tạp A Hàm, quyển 2, từ trang 293 đến trang 299).,.