Điều ngạc nhiên nhất là ngôi chùa này tọa lạc tại một ngôi làng rất xa thành phố và lại trái đường giao thông. Có thể xưa kia có một vị quan nào đó đã về ở ẩn, hoặc tránh nạn chính trị ở đây. Do vậy ông ta đã xây dựng chùa và đã thuê một nhóm thợ có tay nghề rất cao tạc nên những tác phẩm tôn giáo có trình độ nghệ thuật cao. Chùa có thờ Ngọc hoàng Thượng đế ngồi ở giữa như một vị vua, và Đức Quán Thế Âm như một vị hoàng hậu đang ẵm đứa bé mập mạp, và ở bốn góc có bốn võ sĩ bảo vệ. Rất tiếc một số tượng quý ở chùa đã bị mất trộm. Cũng giống như hệ thống bài trí chư Phật, Bồ-tát, Thánh chúng và các vị Hộ pháp ở các chùa miền Bắc, bộ tượng Thánh Tăng và Đức Ông tại chùa Sùng Ân đượcthờ ở phía phải và phía trái tại ngôi tiền đường. Thánh Tăng A-nan cùng quỷ Tiêu Diện và vị Bà-la-môn được thờ ở bên trái, Đức Ông cùng hai vị quan phụ tá thờ phía bên phải tòa tiền đường. Ở đây ta thấy ngài A-nan nghiêm trang ngồi trên điển tòa, đôi chân trần đặt trên đát, ngài có khuôn mặt chữ điền đầy đặn, đôi mắt tinh anh chứa đầy lòng từ bi, bao dung và thương xót cho các chúng sanh đang trầm luân khổ đau. Tay phải ngài cầm chén nước, tay trái đang bắt ấn cúng dường. Những điểm đặc sắc của pho tượng là tăng phục, chân không mang giày, bên trong mặc nội y chứ không phải áo hậu như các pho tượng khac, bên ngoài ngài khoác y Tăng-già-lê có nhiều ô hình chữ điền-biểu hiện ruộng phúc đức-đầu đội một tấm vải che cả hai vai, cổ đeo dây chuyền bằng vàng trang sức cho khoảng ngực rộng. Các lằn và chéo y được sắp xếp một cách khéo léo và tự nhiên khiến ta có cảm tưởng như thật. Nhìn chung ta thấy pho tượng rất sinh động và có hồn.
Bên phải ngài A-nan là Tiêu Diện. Người nghệ nhân xưa đã tạo hình Tiêu Diện như một vị quỷ vương, người to bụng phệ, mặc áo giáp da, bụng đeo thắt lưng bằng kim loại quý, da màu xanh đậm, mặt mày dữ tợn với hai con mắt to trợn tròn, vành môi đỏ như máu vểnh lên trên, cổ có những bắp thịt cuồn cuộn, cặp lông mày sắc như cặp song đao, trán vồ, có hai sừng vảnh lên bên mép tai. Tay trái Tiêu Diện cầm linh chung, tay phải nắm cứng lại như bóp chặt cái gì trong lòng bàn tay. Ở đây Tiêu Diện có thể được diễn tả là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm biến thành đại sĩ Diện Nhiên để hóa độ các loài cô hồn quỷ đói đang bị hành hình trong địa ngục hơn là con quỷ đói khát thật sự. Trong nghi Mông Sơn Thi Thực dùng để cúng cô hồn vào thời công phu chiều, sẽ bàn ở phần năm về nguồn gốc nghi lễ, chức năng và ý nghĩa, quỷ Tiêu Diện mà ngài A-nan gặp trong khi ngồi thiền đã đại thừa hóa trở thành Bồ-tát Diện Nhiên Vương. Một vài kinh Mật giáo đề cập đến Bồ-tát Quán Thế Âm vì lòng từ bi thương xót chúng sinh nên đã biến thành đại sĩ Diện Nhiên, đi vào địa ngục để độ các loài ngạ quỷ. Ngài đã tưới những giọt nước cam lồ xuống đầu những linh hồn quỷ đói và cứu chúng bỏ thân quỷ thác sinh về cõi Tịnh độ. Ở chùa Đại Bi, làng Cát Quế, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây có xây động diển tả cảnh này.
Tượng vị Bà-la-môn ở đây cũng được tạo như một vị tướng mình mặc áo giáp da, chân đi dày, quần bó tóm ống. Trái với tượng Tiêu Diện hung tợn, tượng vị Bà-la-môn mang hình ảnh của một con người điềm đạm, trầm tĩnh, và tự tin được biểu hiện khéo léo qua tư thế ngồi vững chắc và diện mạo tươi vui. Nét trầm tĩnh và tự tin biểu hiện rõ nét qua bàn tay chắc nịch đang ve vuốt chòm râu.
Tượng Đức Ông Cấp Cô Độc được tạc như một vị quan có chức tước cao lại giàu sang phú quý. Nhà điêu khắc diễn tả Đức Ông bận áo gấm thêu hoa văn bằng chỉ vàng, đầu đội mũ quan có cánh chuồn chuồn, chân đi giày mũi hài, tay phải cầm quạt trầm phe phẩy. So với y phục của hai vị thị giả hầu cận, Đức Ông trang phục sang trọng và quý phái biểu hiện ông ta là một người giàu sang và chức vị cao quý trong xã hội.
Tượng hai vị thị giả cũng được tạo hình một cách sống động. Bên phải Đức Ông là vị thị giả có tuổi khoảng xấp xỉ 50, mình mặc áo thụng thêu hoa văn phủ toàn thân nhưng để lộ bàn chân trần một cách có ngụ ý. Khuôn mặt của ông ta tươi vui và linh hoạt điểm thêm chòm râu lưa thưa ở cằm càng làm cho pho tượng sống động như người thật. Ngôi bên trái Đức Ông là một vị phụ tá khác tay trái cầm quạt, người này có vẻ mặt nghiêm nghị, tay phải ông ta chống lên thành ghế và tay áo xăn lên tận vai để lộ bàn tay của những bậc tri thức gầy thon với những ngón tay búp măng. Những đường gân xanh chạy dọc theo cánh tay. Những chi tiết nhỏ này càng khiến cho bức tượng trở nên sống động và rất thật. Cả hai vị thị giả đều đội nón của các nhà Nho sĩ tri thức, và đang nghiêng mình về phía Đức Ông như thể đang tranh luận một vấn đề gì đó rất hào hứng. Cách biểu hiện này khiến cho ta có cảm giác hai vị này đang tranh luận giúp đức Ông ý kiến trong việc bảo vệ trẻ em. Đức Ông ngồi ở giữa với bàn tay trái để trước ngực như có ngụ ý rằng tấc lòng đối với trẻ em và người nghèo khổ khó khăn là bản nguyện quan hoài của ngài.
Nói chung cả hai bộ tượng Thánh tăng và Đức Ông thờ ở chùa này rất thực, rất sống động, và rất có hồn. Nhìn vào tượng Thánh Tăng khiến ta cảm nhận rằng ngài đang để hết tâm bố thí cho cô hồn đói khát và cứu độ chúng thoát cảnh ngạ quỷ. Chiêm ngưỡng tượng Đức Ông khiến ta cảm nhận rằng ngài đang thảo luận với hai vị phụ tá về phương pháp bảo vệ trẻ thơ. Các nghệ nhân cũng đã tạo hình những vị thần Phật giáo Ấn trở thành những hình tượng tôn giáo rất Việt và đạt đến trình độ nghệ thuật rất hoàn mỹ. Nhìn qua thân hình các pho tượng điêu khắc rất cân đối, mỗi người mỗi vẻ tương xứng với diện mạo và chức năng của mình. Cách sử dụng màu sắc để diễn tả sắc diện khác biệt của từng pho tượng rất thực, tay chân sống động và y phục phản ảnh chức năng và địa vị của từng người.
Theo lời khắc trên hai tấm bia đá hình dẹp, và cột hương bằng đá dựng trước sân, chúng ta biết rằng ngôi chùa này được xây vào đời Mạc (1527-1592), và được trùng tu vào các năm 1671 và 1693. Dựa vào các bia văn này cũng như phong cách nghệ thuật, chúng ta có thể đoán định rằng các pho tượng này tạc vào những thập niên cuối của thế kỷ XVII.
Khi đề cập đến phong cách tả thực, chúng ta cần phải bàn tới bộ tượng ngài A-nan thờ tại chùa Hoằng Ân (phường Quảng Bá, quận Tây Hồ, Hà Nội). Vì một lý do nào đó chùa không có bàn thờ Đức Ông mà chỉ có bàn thờ Thánh Tăng. Tượng ngài A-nan ở chùa này được diễn tả khác biệt: người điêu khắc diễn tả ngài A-nan đang đứng thẳng tay trái cầm chén nươc, tay phải đang bắt ấn. Hình tượng này rất thực và rất gần gũi với hình ảnh vị chủ sám ngồi đàn chẩn tế cô hồn. Khi làm lễ đến phần tụng thần chú biến thực biến thủy, vị chủ sám đứng dậy rải những hạt nước từ trong chén nhỏ lên vô số quỷ đói khát đang đứng trước mặt. Đây là pho tượng duy nhất tại Việt Nam mô tả một cách linh động về ngài A-nan đang trong tư thế bố thí cô hôn. Ở đây tượng ngài A-nan không còn mang khuôn mặt tạc theo phong cách lý tưởng như đã trình bày ở một số chùa diễn tả ở trên, hoặc không giống hình ảnh một vị thánh Tăng người Ấn, mà là một vị sư có tuổi khoảng 50, với diện mạo và hình dáng một người Việt thuần túy.
Tượng Tiêu Diện có nhiều nét giống một số các tượng bàn ở các đoạn trước. Tiêu Diện có lỗ mũi to, miệng rộng, mày rậm như hai con sâu róm, và hai cái sừng nhơ lên phía trên tai. Tượng Tiêu Diện này không có chút gì giống tượng Tiêu Diện ở chùa Mía diễn tả con quỷ hả miệng lớn phun ra từng cơn lửa nóng bỏng thiêu đốt bên trong. Tuy vậy ta thấy sự hung hăng được diễn tả qua hai bàn tay nắm cứng chặt và hai bàn chân đang tìm cách dẫm nát những ai chống đối.
Trái hẳn với khuôn mặt bặm trợn và dáng đứng hung hãn của quỷ Tiêu Diện, tượng vị Bà-la-môn được mô tả như một người mập có bụng to, tay chân mập mạp, má lớn, tai nhỏ, mũi bự, tóc cắt cao. Mới thoáng nhìn thân hình to lớn và đôi vai lực lưỡng của pho tượng diễn tả vị Bà-la-môn khiến cho ta cảm tưởng ông ta như một đô vật truyền thống Việt Nam đang biểu diễn thế đứng một cách tự hào. Đầu hơi nghiêng, cặp mắt chăm chú nhìn về phía trước và hai tay đang thủ thế càng khiến cho ta cảm tưởng đây là một đô vật hơn là vị Bà-la-môn tu thiền trong rừng.