Theo truyền thống văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước vụ mùa gieo trồng thường được bắt đầu vào khoảng 15 tháng giêng, sau một thời gian dài nghỉ tết Nguyên Đán [1]. Người nông dân bắt đầu công việc đồng áng và bắt đầu một vụ mùa, cho nên họ đốt rạ, khai hoang, và hạ điền. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam nét văn hóa này thể hiện rất rõ với ba vụ mùa trong năm “Rằm tháng giêng ai siêng thì quảy, rằm tháng bảy kẻ quảy người không, rằm tháng mười, mười người mười quảy”; hay câu: “Lễ chùa quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng”. Đủ thấy tầm quan trọng của ngày lễ này đối với người dân Việt Nam, có thể nói những ngày lễ này đã hòa quyện giữa văn hóa truyền thống và Phật giáo.
Trong 12 cái rằm, rằm tháng Giêng mang nhiều ý nghĩa với nhiều tên gọi khác nhau như: Tết Nguyên tiêu, Nguyên tịch, Nguyên dạ , Thượng nguyên.v.v… cách gọi này bắt nguồn từ sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Trung Hoa và có sự kết hợp hài hòa với văn hóa bản địa, người dân ai cũng mong mòii có một vụ mùa tốt tươi thay vì đốt rạ khai hoang thì người Trung Hoa có một lễ hội cúng “Hoa Đăng” hay còn goi là tết Nguyên Tiêu.
Trong ngày lễ này người dân vừa ăn bánh trôi vừa ngắm hoa đăng. Bắt nguồn từ năm 180 trước Công nguyên, vua Hán Văn- nhà vua đời Tây Hán của Trung Quốc được lên ngôi đúng vào ngày rằng tháng Giêng. Để chúc mừng, nhà vua Hán Văn quyết định lấy ngày rằm tháng giêng là ngày hội Hoa Đăng. Hàng năm vào tối ngày rằm tháng giêng, nhà vùa đều ra khỏi cung để đi dạo cùng chung vui với người dân. Ngày hôm đó, nhà nào nhà nấy, trên khắp các ngả đường, thôn xóm đều treo đủ các loại đèn với muôn hình nghìn vẻ để mọi người thưởng thức. Còn theo Nho học thì nguyên xưa ngày này là Tết Trạng nguyên. Nhân dịp trăng sáng đầu năm, nhà vua cho mở đại tiệc tại vườn thượng uyển, triệu các vị trạng nguyên đến dự hội, ngắm cảnh xem hoa làm thơ xướng họa, ca ngợi các vẻ đẹp thiên nhiên và ân đức nhà vua đã đem lại thái bình thịnh trị.từ đó về sau lễ hội tết Nguyên Tiêu đã được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Cũng trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa, Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam vào những thế kỷ đầu công nguyên và truyền thống văn hóa này đã du nhập vào Việt Nam, ngày lễ rằm tháng giêng hoà quyện vào văn hóa bản địa tạo thành một ngày lễ trong đại và đặc sắc. Theo truyền thống Phật giáo ngày lễ rằm tháng Giêng mang ý nghĩa rất lớn.
Ngày lễ này tiếng Pali còn được gọi là Māgha Pūjā[2] với hai sự kiện trọng đại gắng liền với cuộc đời và công cuộc hoằng dương chánh pháp của đức Phật:
Đây là ngày tụ hội của 1250 vị thánh tăng, trong số đó 1000 vị thuộc nhóm Jatila tức là nhóm đạo sĩ tóc bính và 250 vị kia thuộc nhóm Aggasavaka là đệ tử của ngài Xá -Lợi – Phất và ngài Mục – Kiền – Liên ại thành Vương Xá, mà không hề có sự triệu tập hay bất cứ dự tính nào trước.
Ngày này cũng chính là ngày đức Phật tròn đủ 80 tuổi và ngài hứa với ma Vương đúng 3 tháng nữa ngài sẽ nhập diệt, nhân dịp này ngài thuyết giảng bài kinh Ovādapātimokha với sự nhắn nhủ của Đấng Từ Phụ:
“Sabbapàpassa akaranam
kusalassa upasampadà,
sacittapariyodapanam,
etam buddhàna sàsanam”.
“Không làm mọi điều ác,
Thành tự các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy”[3].
Hán văn:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Lời giáo giới trên chỉ được truyền thống chư Phật tuyên bố khi hội đủ bốn điều kiện:
Đúng vào ngày rằm trăng tròn tháng Magha
Các vị tỳ khưu tự động đến bái kiến đức Phật
Các vị đều là thánh Alaha lục thông
Các vị đều xuất gia bằng cách Ehi bhikkhu
Với những ý nghĩa trọng đại đó, các ngôi tự viện đồng loạt tổ chức lễ cúng rằm tháng giêng cầu phúc cho bá tánh nhân dịp dầu năm với sự mong mỏi thịnh vượng quanh năm. Còn tại các chùa theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy thường kỷ niệm sự kiện trọng đại này bằng cách thọ hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm, thức trọn đêm; hoăc cúng đèn, hay cúng dường đặt bát đến chư Tăng cầu phúc đầu năm.
[1] Tết Nguyên Đáng Chữ “Tết” do chữ “Tiết” (節) mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” (元旦) có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán” (Tết Nguyên đán được người Trung Quốc ngày nay gọi là Xuân tiết (春節), Tân niên (新年) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年). Theo từ điển bách khoa mở: http://vi.wikipedia.org
[2] Māgha Pūjā: Māgha là tên ám chỉ tháng giêng và tháng hai, Pūjā: ngày cao quý, ám chỉ ngày trăng tròn theo từ điển Pali – English điện tử.
[3] Tỷ kheo Thích Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú, Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, Cở Sở II ấn hành 1990, trang 106.