Theo Việt nam Phật giáo sử lược của Thầy Mật Thể, thì vào khoảng năm 1825-1829 đại sư An Thiền có viết một bộ sách ba quyển nhan đề Đạo giáo nguyên lưu. Tuy thế, nếu cứ vào chính thủ bản của bộ sách này, thì chắc nó phải được viết xong khoảng n8m 1845, khi tổng đốc Nguyễn Đại Phương đề cho nó bài tựa Tân lập tam giáo quản khuy lục tự và tác giả viết cho nó bài lệ ngôn cuối cùng, bởi vì nội dung của nó trong phần về Phật giáo đã bao gồm cả những sự việc thuộc triều đại vua Thiệu Trị. Trong quyển đầu của bộ sách này, An Thiền giữa những mô tả khác về lịch sử Phật giáo Việt nam đã cho ta một số những dữ kiện về tình trạng điển tịch của nền Phật giáo nước ta vào khoảng đầu tiền bán thế kỷ XIX bằng cách liệt ra những sách vở Phật giáo dương dụng vào thời Ông cùng những mộc bản được biết đối với tác giả. Bởi vì công tác nghiên cứu điển tích Phật giáo Việt nam ngày nay đang ở thời kỳ phôi thai của nó, những mẫu tin như của An Thiền trở thành hết sức có giá trị, không những tại chỗ chúng báo cáo cho ta biết tình trạng điển tịch của một thời đại Phật giáo Việt nam, ngược lại còn tại chỗ chúng giúp ta phanh phui ra công nghiệp trước tác và biến khắc của quí liệt tổ thánh tăng trong những thế kỷ trước, mà cho đến bây giờ vẫn đang còn bị chôn vùi trong quên lãng, tạo nên những khó khăn không nhỏ cho việc nghiên cứu lịch sử và giáo lý Phật giáo Việt nam. Chúng tôi do đó thấy cần cho công bố những báo cáo điển tịch của đại sư An Thiền, nhằm cho thấy, những báo cáo điển tịch của đại sư An Thiền, nhằm cho đến đầu thế kỷ thứ XIX và những tác phẩm nào đã còn lại cho đến ngày nay nhưng đã không được đại sư kê vào. Đồng thời, để kiểm soát tình trạng mộc bản Phật giáo thế kỷ ấy, như đại sư ghi lại, chúng tôi đã dùng một thủ bản thư tịch khác nhau đề Các tự kinh bản Ngọc Sơn Thiện thư lược sao mục lục, tuy rằng chúng tôi đang chưa biết nó do ai viết ra và viết ra vào lúc nào. Kết quả, như người đọc sẽ thấy, đưa ra khá nhiều mời mọc cho những người nghiên cứu lịch sử điển tịch Phật giáo Việt nam.
Về những tác phẩm đương dụng ở một số, nếu không là toàn thể, những học viện Phật giáo Việt nam thế kỷ thứ XIX tại miền Bắc nước ta, đại sư An Thiền liệt ra những tác phẩm sau đây:
1. Phật tổ thống kỹ | 2. Văn thù chỉ nam |
3. Phật quốc ký | 4. Đại tạng nhất lãm lục |
3. Tâm châu nhất quán lục | 6. Thiên đồng Tuyết đậu lục |
7. Ty môn kỉnh huấn lục | 8. Thiền lâm bảo huấn lục |
9. Qui nguyên trực chỉ lục | 10. Long thư tịnh độ lịch |
11. Ngũ đăng hội nguyên lục | 12. Lục đạo tập lục |
13. Ngũ phái truyền đăng lục | 14. Thiền uyển tập anh lục |
15. Trúc song lục | 16. Khóa hư lục |
17. Sứu thần ký | 18. Thiền quan sách tấn lục |
19. Vân thê qui ước lục | 20. Kiến tính thành phật lục |
21. Hương lâm lục | 22. Trần triều tam tổ thực lực |
23. Trần triều thập hội lục | 24. Thái thượng cảm ứng biên |
25. Thái căn đàm | 26. Cụ xuyên lục |
27. Âm chất lục | 28. Giải hoặc Biên |
29. Đốn ngộ nhập lục | 30. Cao lệ lục |
31. Đạo giáo nguyên lưu | 32. Chuyết công lục |
33. Phát sách thọ giới | 34. Đức sinh lục |
35. Hiếu sinh lục | 36. Giới đàn nghi |
37. Nhân quả thực lục | 38, Thiền Lâm qui ước. |
39. Kế đăng lục | 40. Tam muội tạo tượng |
41. Thập ngưu đồ | 42. Đỉnh hồ chi |
43. Phổ đà chí | 44. Thánh đăng ngữ lục |
45. Tây phương đồ | 46, Tây phương mỹ nhân |
47. Thiên thai tứ giáo | 48. Thích ca thành đạo ký |
49 Tây phương công cứ | 50. Tại gia tu trì |
51. Chư kinh mục lục | 52. Tịnh độ huyền chung |
53. Tịnh độ tu | 54. Thượng sỹ lục |
55. Tịnh độ quyết nghi | 56. Cổ châu lục |
57. Bác cựu truyện | 58 Tầm nang |
59. Thiện bản | 60. Nhã tục |
61. Thiền lâm tinh ngữ | 62. Thủy lục |
Trong số 62 bộ sách này, chúng ta có thể chia thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất gồm những bản văn của Trung quốc, mà ta cả thể truy về nguyên bản hiện nay trong bản in Đại chính hay ta có thể nhận dạng được, mặc dù đã không được thu vào trong bản in đó. Nhóm thứ hai gồm những cuốn sách, mà tôi không thể trong tình trạng hiện tại xác định được tác giả cũng như nguyên lai của chúng. Và nhóm thứ ba gồm những cuốn sách, mà ta có thể nhận dạng được là những cuốn sách của tác giả Việt nam và thủ bản được bảo tồn cho tới bây giờ. Thuộc về nhóm thứ nhất, ta có thể liệt những bản văn từ số 1 đến số 4 và từ số 6 đến số 10, số 19 số 17 và rất có thể số 30 và 62. Số 1 tức Phật tổ thống ký của Chí Bàn đời Tống viết năm 1269, tương đương với bản in Đại chính số ĐTK 2.035. Số 3 tức Phật quốc ký của Pháp Hiển viết khoảng năm 399-418, tương đương với Cao tăng Pháp Hiển truyện ĐTK 2085. Số 2 tức Văn thù chỉ nam do Duy Bạch đời Tống viết năm 1103 tương đương với Văn thù chỉ nam đồ tán ĐTK 1899. Số 4 tức Đại tạng nhất lãm lục, ngày nay không tìm thấy trong bản in Đại Chính, nhưng nội dung của nó có lẽ không gì hơn là cái đầu đề nó chỉ định; rất có thể là tác phẩm của một tác giả Việt nam. Số 6 tức Thiên đồng Tuyết đậu lục của thiền sư Minh Giác viết khoảng năm 1065, tương đương với Minh Giác thiền sư ngữ lục ĐTK 1996. Số 7 tức Ty môn kỉnh huấn lục do Như Cức Tục viết khoảng năm 1470, tương đương với ĐTK 2023. Số 8 tức Thiền lâm bảo huấn lục do Tịnh Thiền Trọng viết khoảng năm 1147, tương đương với ĐTK 2022. Số 9 tức Quí nguyên trực chỉ lục, một cuốn sách không tìm thấy trong bản in Đại Chính, nhưng lại khá quen thuộc với tăng già Việt nam, mà tôi có dịp thấy học tập nó ở những chùa ngoài Huế. Số 10 tức Long thư tịnh độ lục do Vương Nhật Hưu viết khoảng năm 1160, tương đương với Long thư tăng quảng tịnh độ văn ĐTK 1960. Số 19 tức Vân thể qui ước lục của Chu Hoằng đời Minh, không tìm thấy trong bản Đại Chính. Số 30 và 51 có một tình cảnh tương tự như số 4, bởi vì chúng rất có thể là những bản mục lục do người Việt nam viết kê về kinh điển Phật giáo Trung quốc. Số 17 là một tác phẩm của Can Bảo đời Tấn hiện là quyển 11 gói 11 của Học Tân Thảo Nguyên thuộc Bách bộ tòng thư tập thành dảy 46 xuất bản. Nó là một tác phẩm đạo giáo.
Thuộc nhóm thứ hai, ta có thể liệt kê những bản văn số 5, 12, 13, 15, 18, 21, 23, 29, 32-38, 40-43, 45-50, 52-53, 55-58, 61. Như vậy, trong số 62 bản văn của thế kỷ thế XIX, đúng là 37 bản văn chúng tôi hiện nay chưa biết tung tích của chúng, nghĩa là hơn 60% của chúng, trong đó có những bản được xác định triều đại một cách rõ ràng như Trần triều thập hội lục của số 22, hay hứa hẹn một nội dung khá lôi cuốn như Ngũ phái truyền đăng lục của số 13. Những số 24, 25, 42 rất có thể là những tác phẩm của đạo giáo.
Thuộc nhóm thứ ba là những bản văn sau:
Tất nhiên, bản thư tịch trên không cho biết một cách hoàn toàn về tình trạng điển tích thời nó, bởi vì nó gồm phần lớn những tác phẩm liên quan đến lịch sử và thiền, và không nói chi hết đến những kinh điển khác của Phật giáo. Trong đoạn nói về những bản một được khắc về kinh điển của nước ta, An Thiền đã bổ khuyết tại chỗ thiếu sót ấy, và kết quả là sự xuất hiện của bản liệt kê những mộc bản ở tại các chùa ở miền Bắc sau, nhờ thế ta có thể nhìn thấy được một đôi chút tình trạng nghiên cứu học hỏi giáo lý của tập đoàn tăng lữ Phật giáo Việt nam vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Chúng tôi cho ghi lại đây bản liệt kê ấy với không một nỗ lực nhằm đồng nhất những bản khác của Đại tạng kinh Phật giáo, bởi vì đối với những bản văn quen thuộc thì mọi người đều biết, còn đối với những bản không quen thuộc thì chúng ta hiện nay chỉ có thể phỏng đoán, do đó không đóng góp gì nhiều cho việc soi sáng chúng và đôi khi tạo nên những ấn tượng sai lầm. Nó gồm có bản gỗ của những bản văn sau:
1. Hoa nghiêm phạn hiệp | 2. Hoa nghiêm phương san |
3. Pháp hoa bạch văn | 4. Pháp hoa văn cú |
5. Pháp hoa uẩn lục | 6. Pháp hoa tri âm |
7. Lăng nghiêm bạch văn | 8. Lăng nghiêm chính vịnh |
9. Lăng già hiệp triệt | 10. Lăng già ký |
11. Viên giác kinh bạch văn | 12. Phật bản hạnh |
13. Đại a di đà | 14. Thập lục quán kinh |
15. Vô lượng thọ kinh | 16. Bát nhã phóng quang kinh |
17. Tam thiên Phật kinh | 18. Địa tạng kinh |
19. Địa tạng thập luân kính | 20. Đại niết bàn kinh |
21. Vạn phật danh kinh | 22. Phật tổ tam kinh |
23. Khổng tước kinh | 24. Tọa thiền kinh |
25. Quán phật tam muội kinh | 26. Báo âm kinh |
27. Đức hộ kinh | 28. Tứ bộ a hàm kinh |
29. Lương Hoàng bảo sám kinh | 30. Dược sư kinh |
31. Di đà kinh sớ sao | 32. Phạm vỏng kinh lược |
33. Kim cang cảm ứng kinh | 34. Kim cang chú |
35. Kim cang quyết nghi | 36. Kim cang trực giải |
37. Kim cang trạch toàn | 38. Thủy sám kinh |
39. Thủy sám bị giản | 40. Bảo đàn kinh |
41. Tâm địa quán kinh | 42. Kim cang chú giải |
43. Tích trượng kinh | 44. Bảo tích kinh |
45. Hiền ngu kinh | 46. Bách dụ kinh |
47. Chuẩn đề mật chú kinh | 48. Di lạc hạ sinh kinh |
49. Xuất gia công đức kinh | 50. Bất không quyết sách kinh |
51. Tịnh độ huyền môn kinh | 52. Thích ca đồ |
53. Tăng huấn tăng hộ kinh | 54. Hiển mật viên thông kinh |
55. Vị tằng hữu kinh | 56. Đại kim quang kinh |
57. Tiểu kim quang kinh | 58. Duy ma hiệp chú |
59. Pháp giới lập đồ | 60. Tịnh độ hội nguyên |
61. Phát âm sở | 62. Tì ni mẫu kinh |
63. Đại bi xuất tưởng | 64. Dược sư xuất tướng kinh |
65. Kim cang xuất tướng kinh | 66. Đại du già kinh |
67. Duy ma bạch văn | 68. Chư kinh nhật tụng |
69. Viên giác kinh | 70. Nhân quả kinh |
71. Dược sư đề cương | 72. Lĩnh nam trích quái |
73. Tam giáo chính độ | 74. Thiền môn gia lễ |
75. Vạn phật xuất tướng | 76. Bồ tát thiên giới |
77. Vu lan bồn kinh | 78. Mục liên sám |
79. Thủy sám bi giản | 80. Thủy sám tổng |
91. Chư kinh âm tự | 92. Mật cúng |
93. A hàm kinh tứ bộ | 94. Tứ phần như thích |
95. Tì ni trừng trị luật | 96. Tì ni chỉ nam |
97. Huyền ti quỉ phụ luật | 98. Tì ni giới luật |
99. Sa di uy nghi chú sớ | 100. Quy sơn cảnh sách cú thích |
101. Tì ni nhật dung thiết yếu | 102. Mục liên ngũ bách văn |
103. Ngũ gia tôn phái | 104. Bát kỉnh nghi |
105. Bát quan trai nghi | 106. Đại luật tụng |
107. Tứ phần duyên khỉ | 108. Tì kheo lục |
109. Tì kheo ni ngũ bách giới | 110. Sa di ni luật nghi |
111. Báo ân giải | 112. Vương lịch |
113. Khỉ tin luận | 114. Thiên thai chỉ quán |
115. Tịnh độ chỉ quy | 116. Tịnh độ hội nguyên |
117. Đại trang nghiêm luận | 118. Hộ pháp luận |
119. Duy thức luận | 120. Tam giáo bình tâm luận. |
Vậy thì, cho đến khoảng năm 1845 ít nhất là bản gỗ của đúng 120 bản văn đã được khắc và được An Thiền biết đến Trong số 120 bản này, một số bản đã hình như là những bản khắc khác nhau của cùng một bản văn như bản gỗ số 28 và 93, số 39 và 79, bởi vì chúng có cùng một đề danh. Chúng tôi nói hình như, với lý do là, chúng rất có thể tượng tượng hai bản văn khác nhau, chẳng hạn một bản là bản Hán dịch còn một là bản Việt dịch, hoặc có thể thuộc hai tác giả khác nhau. Một số bản khác ta không biết tại sao lại được An Thiền liệt vào kinh Phật giáo. Thí dụ, bản Lĩnh nam trích quái, mà ai cũng biết là một tuyển tập những chuyện dã sử và hoang đường về lịch sử Việt nam và Phật giáo Việt nam. Một số khác nữa lại được hai chữ “bạch văn” gắn vào cái đầu đề quen thuộc, như Viên giác kinh bạch văn số 11. Bạch văn dĩ nhiên có nghĩa là “lời văn đơn sơ rõ ràng tóm tắt”. Thế thì, phải chăng những bản có chữ ấy đi theo đàng sau chỉ đến những toát yếu những bản kinh liên hệ của người Việt nam ta ? Chúng được viết bằng một thứ bản nào đã đến tay chúng tôi. Trong khi liệt ra 120 bản gỗ ấy An Thiền cũng đã phân chia chúng thành ba loại, ấy là loại kinh gồm từ số 1193, loại luật gồm từ số 94-110 và loại luận những số còn lại. Tuy thế, tác giả đã không xếp đặt chúng một cách nhất quán theo thứ tự và tiêu chuẩn đã đề ra. Chẳng hạn, không những những quyển như Lĩnh nam trích quái số 72, Tam giáo chính độ số 73 từ ngoại bộ đã liệt ra như kinh, mà còn việc xếp quyển Báo ân giải số 111 vào loại luận, trong khi nó thực sự phải được thu vào loại kinh, như việc xếp những bản khác của tác giả đã điểm chỉ, bởi vì nó là một Giải thích kinh Báo ân như Lăng già ký là một ghi chú về kinh Lăng già.
Như bản kê thư tịch trên, bản kê những mộc bản vừa thấy cũng không chứng tỏ là đầy đủ chi cho lắm, bởi vì một bản kê những mộc bản Phật giáo và đạo giáo khác đã cung hiến thêm một vài dữ kiện mới, và nó là Các tự kinh bản Ngọc sơn thiện thư lược sao mục lục. Bản kê nầy, như đã nói ở trước, chúng nó đã viết sau bản kê trên của An Thiền không bao lâu. Rất có thể nó đã được viết trước. Dẫu với trường hợp nào đi nữa, một số mộc bản đã được nó điểm chỉ, như ng đã không thấy nói đến trong bản của An Thiền. Thêm vào đó , nó cho ta biết địa điểm tàng trữ những bản mộc do nó ghi. Số mộc bản xuất hiện trong nó được chia làm hai loại, một loại thuộc kinh điển Phật giáo nhưng trong đó gồm luôn cả sách thuốc của đạo giáo được tàng trữ tại đền Ngọc sơn hồ Hoàn kiếm tại Hà nội. Chúng tôi do đó chỉ cho ghi lại đây những mộc bản Phật giáo được tàng trữ tại các địa điểm Phật giáo, và loại ra những kê cứu về điển tịch tàng trữ tại đền Ngọc sơn. Cứ theo bản Các tự kinh bản Ngọc sơn thiện thư lược sao mục lục này, thì ở Hà nội.
Ở Hải phòng,
Ở Hải Dương,
Cả hai không có.
Như thế, cứ theo bản Các tự kinh bản Ngọc sơn thiện thư lược sao mục lục, ta có cả thảy 22 chùa trong năm tỉnh tàng trữ tất cả 62 mộc bản, trong đó chỉ 28 hay chưa tới 50% mộc bản là có thể truy về bản kê của An Thiền. Bằng kiểm soát này, ta có thể kết luận là, cả hai bản kê những mộc bản trên chưa hẳn đã phản ảnh toàn bộ những bản khắc những sách vở của nền Phật giáo nước ta vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIX ở tại miền Bắc. Và tất nhiên, chúng ta không phản ảnh gì hết hoạt động in khắc tại các học viện Phật giáo tại miền Trung và miền Nam. Tuy nhiên, chúng cũng bày tỏ cho ta thấy một phần nào tình trạng học hỏi và nghiên cứu giáo lý Phật giáo ở tại nước ta vào đầu thế kỷ XIX. Tình trạng đó như thế nào ?
Cứ vào bản kê những mộc bản và bản kê thư tịch của An Thiền, thì câu trả lời cho nó gồm có ba thành phần sau. Thứ nhất, về phương diện nghiên cứu và học hỏi, một sự chú trọng tương đối quân bình về cả giáo lý lẫn tập thiền đã đạt được. Việc có mặt của những tác phẩm tu thiền cũng như những kinh sách như Phóng quang bát nhã hy Hoa nghiêm phạn hiệp làm chứng. cho ta một khẳng định như vậy. Thứ hai, về phương diện tôn giáo với sự có mặt của những mộc bản như Chư kinh nhật tụng, Thủy lục chư khoa, Tam giáo chính độ, Thủy sám, Địa tạng v.v… một sự thiên trọng đến cung kính và cầu đảo đã hình như trở thành một sự thiên trọng đến cung kính và cầu đảo đã hình như trở thành một tập quán khá phổ quát. Mức độ phổ quát hóa của tập quán này ngày nay ta chưa có thể xác định được một cách chính xác đáng muốn. Chẳng hạn, cái chế độ thu nhận những đứa con nít vào chùa để tu và dùng kinh Nhật tụng như một văn kiện cơ bản cho việc huấn luyện tôn giáo đã lan tràn và hiện thực tới mức nào ? Cũng cần nói thêm là, cái chế độ ấy cũng hiện đang khá thịnh hành tại nước ta. Dẫu vậy, như những nhận xét trên đã cho biết, chính vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIX mà người ta thấy xuất hiện những văn kiện cúng kính cầu đảo như Thích ca hành táng toản yếu thông dụng vào năm 1836 hay việc in lại chúng như hai bản in năm 1817 của Tam giáo chính độ thực lục. Cuối cùng, về phương diện thực hành một sự liên tục của truyền thống thiền phái Trúc lâm hình như đã được bảo tồn qua sự hiện diện một cách khá phong phú những tác phẩm của những thiền gia phái ấy trong những bản kê trên. Chính vì sự hiện diện này, mà chúng tôi đã nêu lên cái câu hỏi về mức độ lan tràn và hiện thực của cái chế độ cúng kính cầu đảo vừa nói, và nói phải kể là một hiện tượng đáng chú ý, nếu ta nhớ đến sự phát triển của những thiền phái khác như Liên phái, Liễu quán v.v…
Với những nhận xét ấy, một vài ý niệm về tình trạng Phật giáo Việt nam vào tiền bán thế kỷ thứ XIX có thể được lượm lặt. Tuy thế, đây không phải là một nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt nam cận đại. Do đó, chúng tôi chỉ cần nhấn mạnh đến một ít hệ luận sau rút ra từ những nhận xét đấy. Hệ luận thứ nhất là tình trạng Phật giáo vào thời Nguyễn không phải là một tình trạng suy đồi, như ta thường nghĩ hay những nhận xét kiểu của Thầy Mật Thể giả thiết. Hệ luận thứ hai là, nếu không là một tình trạng suy đồi, Phật giáo thời ấy có những nét đặc thù này mà chúng tôi không thể bàn đến ở đây, đã là động cơ cho những phản ứng của tầng lớp và tổ chức Phật giáo đối với cuộc xâm lăng của bọn xâm lược Pháp cùng những tên tay sai hậu tập phản quốc của chúng vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Những phản ứng ấy thường là những phản ứng ái quốc bạo động điển hình qua công tác đấu tranh võ trang của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của những tu sỹ Phật giáo như trường hợp vụ khởi nghĩa của Thiền sư Võ Trứ ở Phú yên hay dưới sự lãnh đạo tự động của phật tử như trong cuộc tàn sát bọn hậu tập phản quốc ở Quảng trị hay dưới sự lãnh đạo tổ hợp giữa quan liêu nhà Nguyễn hay tăng lữ Phật giáo như trong cuộc vận động của Phan Bội Châu và tu sỹ Trần Nhật Thi. Vấn đề tình trạng Phật giáo đầu thế kỷ XIX như vậy trở thành hết sức quan trọng cho việc hiểu biết tình trạng Phật giáo vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX trong giai đoạn chống xâm lăng thứ nhất của dân tộc ta cũng như vào giữa thế kỷ XX trong giai đoạn chống xâm lăng thứ hai và hiện nay. Chúng ta tất không thể hiểu được tại sao cuộc vận động thần thánh vĩ đại của năm 1963 thành công, nếu chúng ta không biết đến những cuộc vận động Phật giáo vào năm 1930. Chúng ta cũng không thể hiểu được những vận động bắt đầu từ năm 1930 ấy, mà kết quả là sự ra đời của một Phật giáo hệ thống hóa và tổ chức, nếu ta không biết đến những vận động Phật giáo vào đầu thế kỷ XX với những công tác như của tu sỹ Trần Nhật Thi và những người tương tự, mà một nghiên cứu những báo cáo của bọn mật vụ xâm lược Pháp và tay sai vào những năm ấy hiện đang tàng trữ tại Archieves Nationales de France, section outre-mer ở Ba lẽ sẽ cung hiến cho ta khá nhiều kết luận lôi cuốn và nhiều chi tiết hoạt động của tình trạng Phật giáo thời đấy. Tình trạng Phật giáo những năm đầu đó cũng không thể hiểu được, nếu ta không chú ý đến giai đoạn khỉ nguyên một Phật giáo dấn thân với những đấu tranh ái quốc bạo động kể trên vào hậu bản thế kỷ XIX, mà, nếu nghiên cứu, tất sẽ dẫn ta về tới tình trạng Phật giáo trong tiền bán thế kỷ ấy. Nói cách khác, nếu Phật giáo Việt nam hiện nay với tất cả những tư thế và ước vọng của nó đang tìm cách đóng góp trực tiếp và hữu hiệu vào việc bảo vệ nhân dân ta, thì đây không phải là một quà tặng từ trên trời rớt xuống hay từ dưới đất lồi lên. Ngược lại nó là một kết tinh của nhiều công nghiệp hy sinh của nhiều thế hệ người Việt nam Tăng sĩ và Phật tử, mà ta có thể truy ít nhất lên tới đầu thế kỷ XIX, chứ không cần phải những thế kỷ nào xa hơn. Phật giáo đầu thế kỷ XIX đến giờ như vậy tất không thể được gắn nhãn hiệu như một thứ Phật giáo “suy đồi tan nát”, như những người viết sử trước đây và hiện nay đã thường làm theo loại ăn nói hàm hồ của những tên truyền giáo tay sai ngạo nghễ kiều tên Ca đie, và đang chờ đợi một nghiên cứu nghiêm chỉnh và đúng đắn cho việc giải thuyên những đặc sắc của nó một cách đầy đủ. Hệ luận thứ ba là sự hiện diện nói trước của những tác phẩm của các thiền sư đời Trần, nhất là thiền phái Trúc Lâm và của vua Trần Thái Tôn. Ý nghĩa của sự hiện diện nay ta chưa có thể xác định được một cách khách quan, bởi vì ta chưa biết đến mức độ phổ biến của những tác phẩm ấy, dầu rằng nó tất phải có những ảnh hưởng quyết định nào đó với những diễn biến Phật giáo của những giai đoạn tiếp theo cho đến ngày nay, mà hình thù ta vừa thấy một cách mập mờ trong phác họa trên.
Những hệ luận này, chúng tôi tin tưởng, mở ra một vài lối nhìn mới cho việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt nam. Không những, cải cách nghiên cứu dựa vào sự tương quan giữa tăng lữ Phật giáo và tầng lớp thống trị phong kiến Việt nam như một dấu hiệu của cái gọi là “sự hưng thịnh Phật giáo” kiểu của Thầy Mật Thể đã chứng tỏ thiếu sót về phương diện nguyên tắc và lý thuyết mà ngay cả về phương diện mô tả dữ kiện lịch sử thực tiễn nó cũng chứng tỏ thiếu sót không kém, như chúng tôi đã có dịp vạch ra, dẫn đến những nhận xét sai lầm về lịch sử biến chuyển và triển phát của nền Phật giáo nước ta. Những hệ luận ấy như vậy đồng thời cũng nhằm đóng góp vào việc sửa sai những nhận xét đó, nhất là những nhận xét về tình trạng Phật giáo của thời kỳ cận đại, và vào việc dựng nên một cách nghiên cứu mới, mà bài nghiên cứu về tình trạng điển tịch Phật giáo Việt nam thế kỷ thứ XIX trên là một thí dụ. Chúng dạy cho ta phải huyền án và đặt vào trong dấu ngoặc những gì, mà ta chỉ biết một cách sơ sài và cục bộ, và tiếp tục truy tìm những gì ấy, cho đến lúc ta có thể nhận nguyên được cái (mặt mũi xưa nay) của chúng. Chúng ta phải tái kiểm những giả thiết của ta về một vấn đề và tái kiểm chứng chính những dữ kiện thực nghiệm. Nó bây giờ cũng trở thành rõ ràng là, nếu ta ngày nay cổ vỏ việc thiết lập nên những bản thư tịch Phật giáo Việt nam, thì công việc ấy cũng không phải là mới mẻ gì cho lắm, như bản kê của An Thiền trên đã chứng tỏ. Và chúng ta cũng không cần phải viện dẫn đâu xa hơn là từ bản kê đó, tuy nó đã bị giới hạn rất nhiều trong giới vức nó tra cứu, mà hình như không bao giờ vượt khởi miền Bắc nước ta, cũng như trong sự toàn triệt và những so sánh trên đã điểm chỉ.
Đến đây, người đọc tất có thể hiểu tại sao bản nghiên cứu này đã được chúng tôi gọi là (ghi chú sơ bộ). Chúng tôi không những đã không có dưới tay những thủ bản liên quan tới những bản văn bàn cãi trên, mà ngay cả những bản thư tịch liệt kê chúng, chúng tôi cũng không có một cách đầy đủ hay chưa có dịp đến nghiên cứu. Chúng tôi đã không có những bản thư tịch Hanoi Fukkoku kyokuto gakuin shozó Annan bon shomoku Shigaku xiii, 1934, 699-786) và Etsunan oshitsu shozó Annan bon shomoku cc. xiv, 1935, 293-341) của N. Matsumoto, Nagata Yasukichishi shu shu Annan bon mokuroku cc. xiv, 1937, 283–299) của Iwai Hio sato, Hanoi Fukoku kyokuto gakuin shozô chữ Nôm oyobi Ann an lon kanseki shomoku cc. xvii, 2938, 571-628 và Toyo gakuho Xxxvi, 1953, 79-112) của T. Yamamoto, và Les Archives des Em sereurs et l’histore annamite (Bulletin des Amis du Vieux Hue XXIX, 1912, 229–259); và cuốn lược truyện các tác giả Việt nam I (1962, Hà nội) của Trần Văn Giáp. Nhưng sự thiếu sót quan trọng và quyết định nhất cho việc nghiên cứu những bản kê loại trên của An Thiền là hai bản thư tịch mở đường sau của Trần Văn Giáp, đấy là Contribution à l’étude des livre boudd hiques annamites conservés à L’ E.F.E.O (1943, Hà nội) và Les chapitres bibliographiques de Le Quí Đôn et Phan Huy Chú (Bul letin de la Société des Étude indochinoises xii, 1938, 1-218.) Chúng tôi đã viết hỏi một số nơi liên hệ, nhưng chúng cũng vẫn chưa đến tay, khi chúng tôi bắt đầu viết những ghi chú trên, Chúng tôi do đó, trong khi viết, đã phải dựa phần lớn vào bản thư tịch Bibliographie Annamite (Bulletin de l’Ecole française dExtrême-Orient XXXIV 1934, 1-173) của E: Gaspardone và những báo cáo tư liệu trong Le Bouddhisme en Annam dès origines au XIIè siècle (cc. XXXII, 1932, 191-286) và Note sur la bannière de l’âme (cc. XXXIX, 1939 221-256) của Trần Văn Giáp. Le repechage de l’âme (cc. XXXIII. 1933, 11-34) của Nguyễn Văn Khoan, va Annan no Bukkyô (Bulkkvô kenkvi vi, 2-3, 1942 143-193) của E. Kuno. Những bản thư tịch khác mà chúng tôi có ở tay như Toyo Bunko Chosen bon burui mokumoku -Fu Anna bon moku Toku (1939 Tokyo) của Đông dương văn khố và Pari Ajia kyokai shozó Annan bon shomoku (Tokyo Daigaku Toyo Bunku Kenkyujo v, 1954, 310-350) của T. Yamamato, đã không đóng góp gì nhiều cho việc truy dạng những tác phẩm và mộc bản của An Thiền kể trên.
Với tất những thiếu thốn vừa nói, chúng tôi vẫn cứ cho viết những ghi chú trên và xuất bản chúng. Mục đích chúng tôi không gì hơn là nhằm giới thiệu những dữ kiện loại ấy cho những người nghiên cứu khác cùng gia tâm truy tìm, khi họ ở trong những điều kiện thuận lợi hơn chúng tôi, như thể đóng góp một cách tích cực vào sự sửa soạn tư liệu cho việc viết những cuốn sử Phật giáo Việt nam sau này một cách đầy đủ và toàn triệt hơn. Như chúng tôi đã nói ngay từ đầu, tình trạng nghiên cứu điển tịch Phật giáo ngày nay đang còn ở thời kỳ phôi thai của nó. Do đó, vì những mời gọi, mà những bản kê loại Ân Thiền hiến dâng, và vì chính những giá trị nội tại chung sở hữu đối với công tác nghiên cứu liên tịch, chúng tôi thà cho công bố chúng trong một tình trạng bất toàn như trên hơn là đợi cho đến lúc một nghiên cứu tương đối toàn triệt, mà với tình thế nước ta ngày nay không hứa hẹn một cách dễ dàng, được thực hiện. Những ghi chú vừa thấy vì thế chỉ là những ghi chú sơ bộ, và những bước tiếp theo đang được dự trù.
Viết xong ngày 7 tháng 7 năm 1969.
LÊ MẠNH THÁT
__________________
LỜI THÊM, Gần đây, chúng tôi có nhận được thủ bản Ngữ lục của Huệ Trung Thượng Sỹ, bản in năm 1903. Cứ theo lời tựa do Thanh Thanh viết cho bản in ấy, thì vào năm 1897 Diệu Trạm đã cho in lại cuốn Trúc Lâm tam tổ thực lục tại chùa Pháp vũ và đến năm 1903 Thanh Từ cùng chùa nhận được cổ bản Huệ Trung Thượng Sỹ ngữ lục từ sư cụ Thanh Lân, ghép cổ bản đó với bản Tam tổ thực lục và cho in thành một pho. Chúng ta không biết pho này đã được gọi dưới tên gì. Nhưng nếu chúng đã được ghép thành một pho, thì sự đồng nhất Trúc lâm tam tổ thực lục với Thượng sỹ lục trên của Cửu Dã phương long đã phải xuất phát từ nó. Chúng ta như vậy có thể chắc chắn là, Thượng sỹ lục không phải là Trúc Lâm tam tổ thực lục, như Cửu Dã phương long đã điểm chỉ. Sự xuất hiện tách biệt của chúng trong bản kê của An Thiền do đó hoàn toàn được biện minh. Với sự bảo tồn của những bản văn như Thượng sỹ lục đây chúng ta tự hỏi không biết bao nhiêu những bản ngữ lục cùng loại, mà bản kê An Thiền đã cho thấy một cách mời mọc là, vẫn còn sống sót cho tới tiền bán thế kỷ XIX, đang còn sống sót cho tới ngày nay. Những bản văn như Trần triều thập hội lục đã được chính bản Thiền uyển tập anh tự nhận là dựa vào cho việc mô tả lịch sử thiền học và Phật giáo nước ta. Sự sống sót của chúng do đó rất quan trọng cho việc thiết lập và xuất bản một Đại tạng kinh Phật giáo Việt nam. Trong liên hệ này, những người xếp đặt điển tịch Phật giáo Việt nam sau này sẽ phải đối diện với một số vấn đề khá lôi cuốn của bài Văn tế thập loại chúng sinh có nên được xếp vào loại điển tịch mệnh danh Phật giáo hy không, bởi vì dẫu sao đi nữa bài văn tế ấy hình như tự nguyện ủy được viết ra cho việc cúng tế Phật giáo,trong thời gian Nguyễn Du có những liên lạc khá mật thiết với những tu sỹ Phật giáo thời Ông.
Về vấn đề Phật giáo Việt nam vào hậu bán thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xem Lê Mạnh Thát – Tình trạng Phật giáo Việt nam trong giai đoạn chống xâm lăng thứ I (1865-1925).
LÊ MẠNH THÁT
_____________
[1] Nguyễn Khắc Viện, Traditional Vietnam : Some historical Stages, Vietnamese Studies XXI (1966) 68.
[Tạp chí Tư Tưởng số 3, 1972]