Thiền chỉ (samantha) và Thiền quán (vipassana) là hai nội dung lớn trong vấn đề “phát triển của tâm” được đề cập trong Kinh tạng Nikāya. Cả hai phương pháp thiền tập này được coi là phương tiện tuyệt vời nhất đưa đến nhất tâm và tăng trưởng trí tuệ.
Trong kinh Tăng chi bộ, Đức Phật giải thích rõ ràng về bản chất và chức năng của thiền chỉ và thiền quán như sau: “Để thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, hai pháp cần phải tu tập. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Để thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, hai pháp này cần phải tu tập. Để biến tri tham, này các Tỷ-kheo,… để biến tận, để đoạn tận, để trừ diệt, để biến diệt, để ly tham, để đoạn diệt, để xả bỏ, để từ bỏ tham, hai pháp này cần phải tu tập. Thế nào là hai? Chỉ và Quán… Để thắng tri, để biến tri sân, si, phẫn nộ, hiềm hận, giả dối, não hại, tật đố, xan tham, man trá, phản trắc, cứng đầu, cuồng nhiệt, mạn, quá mạn, kiêu căng, phóng dật,… để biến tận, để đoạn tận, để trừ diệt, để biến diệt, để ly tham, để đoạn diệt, để xả bỏ, để từ bỏ sân… phóng dật, hai pháp này cần phải tu tập. Thế nào là hai? Chỉ và Quán hai pháp này cần phải tu tập”
Về cơ bản, thiền chỉ (samatha) là tập trung tâm vào một đối tượng sâu sắc và giúp cho tâm tĩnh lặng. Trong các bản văn, ý nghĩa của samatha được giải thích là: Paccanīkadhamme same-tīti samatho, có nghĩa là pháp đã thanh lọc và loại bỏ được pháp đối nghịch được gọi là samatha.
Theo Thích Trung Định, thiền chỉ liên quan trực tiếp đến sự an định tâm trí về một đối tượng thiền thích hợp, nhằm ngăn chặn sự phóng túng và vọng tưởng trong tâm. Khi tâm trí tập trung sẽ phát sinh niềm an lạc tinh tế, sự thú vị bởi chấm dứt các dục và các bất thiện pháp. Samatha là một công cụ mạnh mẽ để thực hành thiền minh sát có hiệu quả. Bất cứ ai đạt được thiền chỉ, tâm trí của họ trở nên vắng lặng, giống như một hồ nước hoàn toàn yên lặng trong suốt vô ngần không có một gợn sóng lăn tăn làm khuấy động mặt hồ. Có thể nói, đây là sự thực hành trong sự tập trung tâm, làm cho tâm ý của chúng ta ngưng tụ lại lắng dịu xuống.
Thiền quán cũng được gọi là thiền tiến trình, không tập trung tâm vào một đề mục cố định nào thay vào đó phát huy khả năng định tâm trên những đề mục thay đổi như là một phương tiện để kiểm chứng bản chất tiến trình thân tâm. Thiền quán là nhìn sâu để thấy rõ bản chất của sự việc.
Tác giả Jack Kornfield chia sẻ, người ta tu tập thiền quán để phát huy tâm từ bỏ, thấy mà coi như là không thấy đối với tất cả những gì đang diễn biến xung quanh ta, đối với tâm thức và đối tượng tâm thức. Đáng lẽ ra, tập trung vào một đề mục nào đó thì người ta lại tập trung vào sự thay đổi liên tục của thân tâm lấy nó làm đề mục, và qua sự quan sát rõ ràng và thăng bằng của chúng ta thực sự đạt đến tuệ giác và trí tuệ.
Định là một yếu tố cần thiết cho thiền quán, nếu không có định thì phải được áp dụng tu tập nhiều đề mục khác. Thiền quán tập trung chánh niệm tỉnh giác vào thân, thọ, tâm, pháp bởi vì chúng cảm nhận qua từng sát-na. Khi sự tập trung và chú ý tăng dần tâm trở nên trong sáng và quân bình.
Tóm lại, thiền chỉ và thiền quán là hai phương pháp hành thiền vô cùng quan trọng của Phật giáo. Đây là con đường duy nhất đưa đến hạnh phúc, an lạc và giải thoát.