MỤC 1: NIẾT BÀN LÀ GÌ?
Niết Bàn do chữ Nibbana của Nam Phạn (Pali), và chữ Nirvana của Bắc Phạn (Sanskrit), do chữ Ni là không, và chữ Vana là dính mắc, ái dục. Niết Bàn là không dính mắc, dứt duc, diệt dục, không ái dục; Niết Bàn được hiểu rộng ra là tận diệt vô minh, tịch diệt, an lạc, vô vi, viên tịch, giải thoát.
Người đạt được trạng thái tâm thể hoàn toàn vắng lặng tỉnh táo là đạt tới Niết Bàn; Niết Bàn khác với người ngủ mê, chết giấc không biết gì; có thể nói Niết Bàn là tình trạng tuyệt định tĩnh, tuyệt trí, tuyệt huệ. Niết Bàn có trạng thái không phát khởi, không sinh, không thành, không tạo tác; Niết Bàn còn được diễn tả bằng những chữ như tối thượng, bất khả diệt, thanh tịnh tuyệt đối, giải thoát v.v…
MỤC 2: ĐẶC TÍNH CỦA NIẾT BÀN:
Có hai đặc tính:
Đặc Tính Thứ nhất: Niết Bàn Vô Trụ:
Niết Bàn Vô trụ là Niết Bàn không có nơi chỗ xứ sở nào nhất định, Niết Bàn vô trụ như các vị A La Hán khi tịch diệt chỉ còn Chân Như tồn tại, không thể diễn tả được, là cái hiện hữu nhưng không được nhận biết.
Đặc Tính thứ hai: Niết Bàn Thường Trụ:
Niết Bàn thường trụ với ý nghĩa bất động, Niết Bàn sẵn có của mọi chúng sinh, mỗi chúng sinh đều vốn có tự tính Niết Bàn, chứ không phải do tu mới có. Như mặt nước vốn phẳng lặng, chỉ vì gió, vật hay người làm động nên thành sóng; mặt gương vốn soi hình chỉ vì bụi bám mà không thấy bóng. Niết Bàn của Chư Phật là dạng chủ động ban phát lòng từ bi. Đây là dạng thống nhất Chân Như với mọi chúng sinh, các vị Bồ Tát khi giác ngộ vào trong sáu cõi giáo hóa chúng sinh, lúc nào cũng tự tại.
Những pháp hữu vi là những pháp do nhân duyên tạo ra, có hình tướng số lượng suy lường thuộc thế gian, đều có một hay nhiều nguyên nhân tạo điều kiện phát sinh biến đổi và diệt mất. Những pháp vô vi là pháp không do yếu tố khác tạo thành, không có ý niệm tạo tác sinh diệt, không thuộc thế gian, không cần điều kiện hay nguyên nhân để có, đó là Niết Bàn.
Tất cả sự vật trong vũ trụ từ vật chất đến tinh thần đều biến đổi, từ nhỏ như tế bào, tới lớn như qủa đất đều biến đổi, vô thường. Về mặt tinh thần, như tâm thức, sự biến đổi còn mau chóng hơn nhiều. Niết Bàn không được làm thành bởi biến đổi, Niết Bàn không diệt, không sinh, trường cửu, bất diệt.
Hạnh phúc thế gian trong đời sống chỉ là sự thỏa mãn nhất thời, qua rồi tham vọng khác lại xuất hiện, không khi nào dứt, không khi nào đủ. Nhưng nhiều người lầm tưởng hạnh phúc do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mang lại là hạnh phúc nhất trên đời.
Đức Phật không chấp nhận như thế, ngay cả nếu một người xa lià dục vọng, xa lià việc ác, có giác là biết, có quán là thấy; do lià dục ly pháp bất thiện sinh ra hỷ lạc vui vẻ và an tâm trong thiền thứ nhất, đó là hạnh phúc cao thượng hơn.
Hoặc người chấm dứt dục vọng, xa lià việc ác, dứt giác, dứt quán, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, an trụ thiền thứ hai, đó là hạnh phúc cao thượng hơn nữa.
Hoặc người chấm dứt dục vọng, xa lià bất thiện, lià tham, ly hỷ, trụ xả, biết thân được an vui, mà Thánh nhân thường nói là xả niệm lạc thú an trú thiền thứ ba, đó là hạnh phúc cao thượng hơn nữa.
Hoặc người chấm dứt dục vọng, xa lià bất thiện, lià khổ, dứt buồn vui, chẳng khổ chẳng vui, buông xả tất cả, chính niệm nhất tâm, an trú thiền thứ tư, cho đó là hạnh phúc cao thượng hơn.
Đức Phật vẫn không chấp nhận, vì còn có hạnh phúc cao thượng hơn; cần phải vượt lên khỏi mọi tri giác về hình thể, vượt lên khỏi cảnh giới Không, vượt lên khỏi cảnh giới Thức, lên khỏi cảnh giới Tưởng; nghĩa là phải vượt khỏi cảm giác, tri giác, tâm thức; đó mới là hạnh phúc cao thượng nhất.
Tóm lại: Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng, Niết Bàn là chân lạc tuyệt đối.
MỤC 3: CÁC LOẠI NIẾT BÀN:
Có hai loại Niết Bàn:
MỘT LÀ: NIẾT BÀN HỮU DƯ:
Diệt sạch năm hạ phần kiết sử là “dâm, sân, si, tâm dính mắc, tâm ô nhiễm (hữu lậu)”, tức diệt hết phiền não lậu hoặc, nhưng còn thân của nghiệp dư, gọi là Niết Bàn còn tàn dư. Niết Bàn này là trạng thái của các bậc Thánh đã dứt bỏ mọi phiền não, các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn (là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), là còn nghiệp dư thừa.
Có thể nói các vị đã chứng bậc A La Hán rồi không còn tái sinh nữa, nhưng vẫn còn nghiệp dư, tập khí từ nhiều đời nhiều kiếp còn sót lại. Các Ngài vẫn còn dùng thân ngũ uẩn (là sắc, thụ, tưởng, hành, thức để sống), tức còn cảm giác, nên mặc dù không còn tái sinh nữa, vẫn được gọi là Niết Bàn Hữu dư.
HAI LÀ: NIẾT BÀN VÔ DƯ:
Là không còn phiền não, không còn ô nhiễm, không còn dính mắc sáu căn, ý giải thoát, trí tuệ giải thoát, tâm vắng lặng. Cũng gọi là Đại Niết Bàn hay Bát Niết Bàn. Đức Phật cho biết: “Niết Bàn là tâm vắng lặng không lay động. Không có cái vui nào bằng cái vui do tâm bất động tạo thành, nên gọi là Niết Bàn Vô dư”.
Khi còn bị ái dục trói buộc, dính mắc thì còn tạo nghiệp, còn tạo nghiệp sẽ còn sinh tử; đến khi nào ái dục chấm dứt không còn nghiệp qủa nữa mới thoát khỏi luân hồi, đó là giải thoát khỏi sinh tử triền miên đạt Niết Bàn.
Sự dập tắt các thứ lửa như lửa tham, lửa sân, lửa ngu si tà kiến, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa lo buồn, lửa thất vọng, lửa khổ sở v.v…hết sạch rồi, sẽ dẫn tới Niết Bàn.
Khi các vị A La Hán nhập diệt thì mới đạt đuợc Niết bàn Vô Dư, chỉ có chư Phật và đại Bồ Tát đang khi sống tại thế là có được Niết Bàn Vô dư, tại sao? Vì các Ngài dù vẫn hoạt động bình thường như mọi người, nhưng tâm các Ngài không còn động với những cảm giác nữa, nên các Ngài đã chứng Niết Bàn Vô dư đang khi còn sống là vậy.
MỤC 4: THẮC MẮC VỀ NIẾT BÀN:
Những câu hỏi liên quan đến Niết Bàn là:
1). NIẾT BÀN LÀ HƯ VÔ SAO?
Có người hiểu Niết Bàn và hư vô là một, cho là Niết Bàn là trống rỗng trống không, không có gì hết. Nếu chỉ vì các giác quan không thấy không biết, không nhận ra được mà cho rằng Niết Bàn là hư vô thì vô lý. Cũng như người mù từ lúc mới sinh ra, không thấy màu sắc hay mặt trời mặt trăng, nay có người nói các màu sắc đỏ vàng xanh tím trắng đen khác nhau, hay diễn tả mặt trời tròn có sức nóng và tỏa ánh sáng v.v… Người mù ấy khó mà tưởng tượng nổi những sự khác biệt giữa các màu sắc, và cho rằng làm gì có sự khác biệt như thế; cũng như khó tưởng tượng ánh sáng như thế nào?
Ngôn ngữ không thể diễn tả được ý nghĩa của những gì qúa trừu tượng ngoài lãnh vực của thế gian, vì vậy khi các vị đạt qủa A La Hán diễn tả Niết Bàn, chúng ta không sao hiểu nổi, nên các vị nói rằng: “Nếu không gian là không thì Niết Bàn là có, và Niết Bàn là đạo qủa, Niết Bàn có thể chứng ngộ được như một đối tượng tinh thần”. Do đó, Niết Bàn không phải là hư vô, mà là hạnh phúc hoàn toàn, là tuyệt đối duy nhất, phải tự chứng ngộ mới hiểu được.
2). LÀM SAO BIẾT CÓ NIẾT BÀN?
Mỗi người đều có tự tính Niết Bàn, chỉ vì bị trần cấu tham sân si tà kiến, chấp nhân ngã chúng sanh thọ giả v.v…mà thành khuấy động, nghĩa là bị ái dục, vô minh gây phiền não nên Niết Bàn bị che lấp, vùi dập. Vì vô minh mà tạo nghiệp, vì tạo nghiệp nên có sinh tử, nếu không tạo nghiệp, sẽ dứt được luân hồi, tức đạt được Niết Bàn. Biết bao nhiêu đệ tử của Đức Phật từ hàng cư sĩ tại gia, cho đến hàng Phật tử xuất gia đã chứng qủa Niết Bàn, thể hiện một cách cụ thể rằng thực tế có Niết Bàn, sau khi diệt trừ hết phiền não cấu uế ở đời.
3). NIẾT BÀN CÓ THỰC HAY KHÔNG?
Người đời thường hay chấp chặt, khi nói Có, họ chấp có thường còn, trường tồn vĩnh cửu, khi nói Không họ chấp hoàn toàn không, chẳng có gì. Niết Bàn không phải thực Có hay thực Không, nó xa lià Có và Không. Vì nếu nói Có thì phải có hình tướng, có thể diễn tả được; Niết Bàn không có hình tướng để có thể chỉ ra được, nên không thể bảo Niết Bàn là thực Có hay thực Không.
Như trong Tạp A Hàm quyển 3, trang 659 cho biết Tôn giả Đà Phiêu Ma La Tử đến chỗ Đức Phật lễ Phật, xin phép Phật cho phép Ngài nhập Niết Bàn. Sau hai lần xin phép, Phật im lặng chấp thuận, tới lần xin phép thứ ba, Đức Phật bảo: “Các pháp hữu vi đều như thế cả”, các pháp, cái gì là vật chất đều vô thường tan hoại cả.
Tôn giả Đà Phiêu Ma La Tử sau khi được Đức Phật cho phép, liền phóng thân lên hư không, ở trên hư không làm đủ 18 phép thần biến hóa trong tư thế ngồi nằm, đi, đứng. Tôn giả dùng lửa đốt thân, dùng nước tưới mát thân, sau cùng, dùng lửa tam muội đốt toàn thân như một cây đuốc, ánh sáng tỏa khắp, cho đến khi thân tâm đều tiêu diệt hết, biến hết chẳng còn gì, như ngọn đèn tim dầu cùng hết. Lúc ấy Đức Phật nói kệ diễn tả Niết Bàn như sau:
Ví như đốt thanh sắt,
Lửa lóe sáng rực rỡ,
Sức nóng dần dần mất,
Cũng như thế giải thoát,
Vượt bùn lầy phiền não,
Các dòng đã dứt sạch,
Chứng đắc dấu bất động,
Nhập Vô dư Niết Bàn.
4). NIẾT BÀN Ở ĐÂU?
Niết Bàn tùy thuộc mỗi con người, tùy thuộc sự chấm dứt đau khổ phiền não; Niết Bàn không tùy thuộc ở sự cấu tạo vật chất, Niết Bàn không phải là một cảnh giới nào đã được tạo ra hay một cái gì được tạo ra. Do Đức Phật chứng được trí huệ vô thượng, nên Ngài thấy ra Niết Bàn không phải là một cảnh giới nào dành riêng cho những cá thể xuất chúng, mà là sự thành tựu cuả tâm trong quá trình hành trì Tứ vô Lượng Tâm, khi tâm đã an trụ trong Từ, Bi, Hỷ, Xả rồi, thì đó là cảnh gìới niết bàn trong hiện tiền. Đức Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy, tuyệt đối không hề có một cảnh trời nào có những hình thức vui sướng mà con người mong muốn thỏa thích hưởng thụ theo ý nghĩa của thế gian này; không thể có một cảnh giới nào như vậy, bất luận là nơi nào trong vũ trụ.
Niết Bàn trong tâm chúng sinh thì nó tùy sự hành trì của mỗi người, nếu hành trì chưa đầy đủ thì còn ẩn, khi nhân duyên đưa đến, nhưng sáu căn không dính mắc sáu trần thì Niết Bàn có mặt, chứ Niết bàn không ở đâu, về đâu. Nếu diệt hết khổ, vững vàng bền bỉ trên nền tảng đạo hạnh trong việc nhiếp tâm Thiền quán, dù ở trời Đông hay trời Tây, đều sẽ thành tựu đạo qủa Niết Bàn như nhau.
5). NIẾT BÀN TỊCH TĨNH HAY BIẾN ĐỘNG?
Niết Bàn không biến chuyển di động, nó tịch tĩnh bất động, nhưng không phải như thây chết hay núi đá yên lặng bất động. Niết bàn tuy tịch tĩnh vắng lặng bất động, nhưng luôn luôn chiếu soi; vì vậy chư Phật có Tam thân (là Pháp thân, Hóa thân, và Báo thân), có Ngũ nhãn (là nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn, Phật nhãn), có Ngũ trí, Lục thông v.v…
Niết Bàn có vô số diệu dụng, như Chư Đại Bồ Tát tuy tâm như như bất động, nhưng vẫn hóa thân vào các loài để giáo hóa chúng sinh ở bất cứ nơi đâu, không phải đến Niết Bàn rồi không còn gì nữa.
6). CÁI GÌ NHẬP NIẾT BÀN?
Chẳng có cái gì nhập Niết Bàn cả, Niết Bàn tự nó có sẵn, mỗi chúng sinh đều có tự tánh Niết Bàn, tự nó xưa nay vẫn vậy. Mỗi chúng sinh do hai phần danh là nghiệp, và sắc là tướng, khi đủ nhân đủ duyên thì thành, khi hết duyên thì mất. Hai phần này luôn luôn biến đổi, ngoài hai yếu tố ấy, không có một linh hồn bất biến trường cửu, không có một cái ta nào cả; do đó, không có cái ta hay linh hồn nhập Niết Bàn, Niết Bàn của Phật giáo khác hẳn với Ấn Độ giáo, Ấn Độ giáo tin có linh hồn trường tồn bất biến và một Thượng đế.
Niết Bàn thật là khó hiểu đối với chúng sinh, vì không thể dùng ngũ quan tri giác của con người mà cảm nhận được. Nhưng muốn hiểu biết Niết Bàn, con đường Phật đã dạy thật rõ ràng minh bạch. Nếu ai dùng trí tuệ để quán chiếu, thấy rõ được thật tánh giả ảo vô thường của các pháp và không dính mắc vào, thì Niết Bàn sẽ hiển lộ.
MỤC 5: TỔNG KẾT VỀ NIẾT BÀN:
Định kiểm soát tâm, nhưng Huệ mới là điểm chính, để giúp hành giả từ phàm trở nên Thánh, Huệ giúp tận diệt mọi nhiễm ô để nhận ra chân tướng của vạn pháp. Với tâm định, hành giả quán sát Thân Tâm: Thân là do Tứ đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” mà tạm có, khi Tứ đại tan rã sẽ không còn thân nữa. Tâm do “Thụ, Tưởng, Hành, Thức” mà tồn tại, những thứ này luôn luôn biến đổi không ngừng, không có thực thể.
Vì thế cho nên Thân Tâm do Năm uẩn hợp lại không phải là ta, không phải là cái của ta, không phải là tự ngã của ta. Nó chỉ là do “Nghiệp thức” qúa khứ lưu chuyển, hợp với tinh cha huyết (trứng) mẹ mà có thân hiện hữu. Do nhân duyên ấy, qúa khứ tạo điều kiện cho hiện tại, hiện tại tạo điều kiện cho tương lai.
Suy niệm như thế sẽ thấy rõ diễn biến của sinh tử, nó như một dòng nước chảy, như bánh xe quay không ngừng, nó là vô thường, là khổ, không có một linh hồn trường cửu bất biến. Hành giả nhìn rõ điều đó, không còn lầm lẫn, thấy biết cảnh sống chỉ là tạm bợ. Khoái lạc chỉ là mở đường cho khổ đau, thân người và cuộc sống là sự biến đổi. Vì thế không có cái ta, cái ngã trường tồn vĩnh cửu.
Các vị A la Hán còn mang thân Ngũ uẩn, nên vẫn như mọi người về thể xác, nhưng khi các vị nhập Đại định sẽ không còn thấy thân thể đau đớn. Lúc ấy mọi thứ của cơ thể đều ngưng bặt, như ngưng bặt hơi thở, nhưng vẫn còn hơi nóng, giác quan vẫn sáng suốt.
Khi vị A La Hán nhập diệt như ngọn đèn dầu trước gió tắt biến, thoát khỏi danh sắc thân tâm, rồi biến mất, không thể ghi nhận được Ngài đi đâu. Ta không thể nói vị A La Hán sẽ tái sinh, vì mọi điều kiện tạo sự tái sinh đã tiêu diệt hết. Ta không thể nói vị A La Hán mất tiêu thành hư vô, vì không có gì để mất tiêu thành hư không.
Vì vậy Niết Bàn là sự giải thoát khỏi mọi sự buồn phiền đau khổ, là sự tận diệt tự ngã, và là sự tận diệt vô minh. Niết Bàn là bản thể của tự tánh đầy khắp không gian, chỗ nào cũng hiện diện, bất sinh bất diệt, tràn khắp thời gian quá khứ hiện tại tương lai, lúc nào cũng có, bởi vậy:
Muốn đạt quả Niết Bàn,
Hãy tinh tấn tu hành,
Đừng như chim hạc già,
Chết rũ nơi đồng hoang.,.