Mỗi năm, khi lúa bắt đầu vào đòng cũng là lúc trẻ em náo nức chuẩn bị đón Rằm Tháng Tám (hay còn gọi là Tết Trung thu). Tết Trung Thu thường được chuẩn bị từ rất sớm, bởi dịp này người Việt không chỉ chuẩn bị cho các nghi lễ thờ cúng tổ tiên như thông lệ của các ngày rằm hàng tháng, mà còn là thời điểm mỗi nhà chuẩn bị một lễ nho nhỏ cúng trời đất, cầu mùa màng. Nhân đó mà các em nhỏ cũng được bố mẹ làm cho các đồ chơi Trung Thu bằng những vật liệu dễ kiếm trong dân gian. Chẳng hạn như những đèn kéo quân, đèn ông sư, đèn ông sao, đèn cá chép, đèn con thỏ, đèn con cóc, rồi những chiếc mặt nạ bằng giấy được làm sẵn... Đến hội, trẻ con khắp làng sẽ tập hợp nhau lại thành một đám rước đánh trống, rước đèn, chơi mặt nạ và hát những bài đồng dao khuấy động không khí đêm rằm, để rồi đến khuya chúng được “phá” những mâm cỗ Trung Thu, cúng “trăng rằm” đó.
Trong số các loại hình đồ chơi Trung Thu, mặt nạ giấy bồi là loại hình lâu công nhất. Xa xưa, việc làm mặt nạ hay các đồ chơi khác thường được bố mẹ, hoặc các bác nông khéo tay làm và hướng dẫn cho bọn trẻ trong làng mình cùng tham gia. Ngoài việc hướng dẫn cho trẻ những kỹ năng khéo léo của các đồ chơi thủ công, họ còn kể cho chúng nghe những tích khác nhau về những chiếc mặt nạ được làm, Ông Địa, thỏ ngọc rồi những con giống, con thú hay những câu chuyện về Đường Tăng đi lấy Kinh. Những câu chuyện như nối lên một mạch nguồn với truyền thống và tạo nên sự gắn kết thế hệ. Sau này, việc làm mặt nạ hay đồ chơi dân gian không còn duy trì ở từng gia đình mà được chuyên môn hóa. Các nghệ nhân đến mùa trăng, sẽ sản làm hàng loạt mặt nạ với nhiều khuôn dáng khác nhau rồi đi bán ở hầu hết các làng quê của Việt Nam. Ngày nay, việc làm mặt nạ bồi Ở Hà Nội có một vài nhà ở Hàng Lược, Hàng Mã làm; Làng Hảo ở Liêu Xá, Hưng Yên cũng là nơi đến dịp này sản xuất hàng loạt cung ứng cho các vùng.
Để làm nên một chiếc mặt nạ bồi chơi Trung Thu, có khá nhiều các công đoạn khác nhau. Khâu đầu tiên là tạo hình bằng đất sét khuôn hình mặt nạ nhân vật mong muốn. Công đoạn này chỉ có người lớn mới có thể làm. Sau đó đến phần việc bồi những lớp giấy bản chồng lên nhau bằng hồ nếp để tạo ra một chiếc mặt nạ vừa nhẹ, vừa cứng để trẻ có thể cầm chơi vui cùng với lễ hội rước đèn. Khâu cuối cùng, cũng là khâu quyết định là sơn vẽ sao cho các mặt nạ đó được sinh động, hấp dẫn. Xa xưa mặt nạ Việt thường dùng sơn ta pha với màu tự nhiên được quết lên cũng khiến cho các lớp giấy bản tuy mỏng nhưng lại có thể được gia cố lại một cách chắc chắn. Không chỉ tô vẽ, một số các loại hình mặt nạ như đầu ông lân – sư tử, người ta còn gắn thêm các loại lông mao, lông mày bằng lông thỏ, rồi cắt miếng vải điều dán phía sau để các cuộc chơi của bọn trẻ thêm sinh động.
Thoạt nhìn, những chiếc mặt nạ, những đồ chơi Trung Thu của trẻ con có vẻ như chỉ là những vật dụng mua vui đêm rằm cho các bé, nhưng thực chất ở mỗi hình tượng được làm được chơi lại mang những thông điệp văn hóa rất rõ ràng. Người lớn làm cho trẻ con vui trông trăng nhưng thực chất các loại hình từ đồ chơi cho đến mặt nạ đã đóng góp một cách đặc biệt vào “nghi lễ” cúng trăng – cúng trời đất – cầu mùa mà con trẻ như một thành tố tham dự vào để không khí đêm Rằm Tháng Tám trở nên sôi động.
Trong các trò chơi với mặt nạ Trung Thu, không thể thiếu hình tượng mặt nạ ông Địa và mặt nạ con thỏ ngọc, mặt nạ khỉ, trâu, lợn, đầu lân…. Mặt nạ ông Địa tức vị thổ thần, thổ địa được làm trong hình dáng tròn vo và vui tươi như sự sung mãn đầy đủ của đất đai màu mỡ. Bên cạnh đó hình ảnh thỏ ngọc lại là hình ảnh tượng trưng cho sự đẹp đẽ hài hòa – hoặc tượng trưng cho ánh trăng sáng ngời đêm rằm. Với hình tượng ông Địa no đủ, vui tươi, Thỏ ngọc nhanh nhẹn sáng ngời, cũng có nghĩa là ẩn dấu trong đó ước vọng về một mùa màng bội thu.
Trong đám rước đèn đêm trăng, ông Địa, cầm cái quạt mo phe phẩy, đi trước đám múa lân, rồi cả một đám trẻ con rồng rắn với những bài đồng dao. Múa đầu lân cũng là trò chơi đầy ẩn ngữ. Con Lân cũng là hình ảnh tượng trưng cho ánh sáng và cho điềm lành. Đầu lân Việt cũng khác hoàn toàn với màn múa Lân - sư tử của người Hoa, nó được làm vừa đủ cho một đứa trẻ tùng rinh. Nếu muốn, cũng có thể có thêm một đứa con nít khác cầm cái đuôi lân ngắn ngắn phía sau là một tấm vải điều mà phất theo cùng nhịp trống. Các loại đèn ông sao, con cá, con thỏ cũng được xem là những đồ chơi phụ họa cho đám rước này. Đèn kéo quân có dạng hình lục lăng cũng mang một ẩn ngữ khá thú vị, ngoài việc tạo ra những hình ảnh và vòng xoay chỉ nhờ ánh nến, thì nó còn mang ý nghĩa về lục đạo luân hồi, như phụ vào đám rước. Cùng với đó là các loại hình mặt nạ mang tưởng như chỉ là câu chuyện thường được kể cho trẻ con về Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới, Đường Tăng … để nêu cao tinh thần vượt khó, sự dũng cảm, mưu trí, còn có thể xem là dấu ấn Phật giáo được thể hiện ra trong lễ hội đêm rằm.
Có thể nói việc xuất hiện đa dạng các hình tượng trên mặt nạ Trung Thu với những ý nghĩa được gửi gắm cũng là hợp lẽ, bởi đây là giai đoạn nông nhàn, lúa vụ mùa đã vào đòng, chỉ chờ sây bông, mẩy hạt, đón Trung Thu xong thì thu hoạch. Bằng kinh nghiệm dõi theo chu kỳ của tạo hóa, người xưa đoán định mùa vụ qua ánh trăng đêm Trung thu: trăng màu vàng trúng mùa tằm tơ, trăng xanh, lục báo hiệu thiên tai, trăng màu cam đất nước thái bình thịnh trị hay “trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa”. Đám rước đèn, chơi mặt nạ tưởng chừng như chỉ là trò vui của con trẻ, nhưng thực chất qua đó dân gian gửi gắm những thông điệp với đất trời. Miền ước mong cho trời yên bể lặng, mong cho ánh trăng sáng tươi, đất đai màu mỡ như được hiện lên qua các hình ảnh của mặt nạ Trung Thu, tất cả như gợi ý cho các thế lực tự nhiên, trời đất, trông đó mà tạo phúc cho niềm ước vọng của con người. Trong sự xoay vần của trời đất – lục đạo luân hồi, rồi sự xuất hiện của hình tượng Phật giáo chính là sự kết hợp của những ngữ nghĩa văn hóa, như một sự đủ đầy, sự sung mãn cả về đời sống tinh thần lẫn vật chất của người Việt. Chúng cũng như ước mong, thông điệp gửi gắm vào đất trời, cho mùa màng bội thu, cho con cháu luôn tươi vui khỏe mạnh.
Như vậy, có thể thấy thông qua các mặt nạ Trung Thu của người Việt những dấu ấn văn hóa đậm chất tín ngưỡng nông nghiệp của cư dân làm lúa nước được hiện ra. Dường như nó cũng khác hẳn với các hình tượng hay truyền thuyết về trung thu của Trung Quốc – vốn được xem là một nền văn hóa đồng văn với Việt Nam. Các truyền thuyết Trung Thu về Vua Đường Minh Hoàng, gặp đạo sĩ, rồi ước nguyện lên cung trăng, hay câu chuyện Hằng Nga, Hậu Nghệ - một nhân vật có tài cung nỏ song toàn thuộc về nền văn hóa đậm chất du mục phương Bắc.