Hai trường Phật học Tăng già (Sangha Buddhist) là những trung tâm giáo dục chính tại quốc gia Phật giáo Lào, cung cấp giáo dục cho các cơ sở tự viện Phật giáo, giữ gìn và phát huy các giá trị nhân văn, văn hóa Lào, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tinh thần Đạo pháp - Dân tộc. Họ không chỉ tạo ra những học giả Phật giáo trẻ, mà còn đóng góp vào nguồn nhân lực cho đất nước.
Giới thiệu
Quá khứ lịch sử hàng nghìn năm, như nhiều quốc gia Phật giáo khác, giáo dục ở Vương quốc Phật giáo Lào được thực hiện trong các cơ sở tự viện Phật giáo, nơi Chư tăng được đào tạo và giáo dục trong nhiều năm, và sau đó bản thân họ đã được dự vào hàng ngũ tăng già (Sangha).
Theo truyền thống, bất kỳ người đàn ông nào cũng phải trải qua ít nhất một lần được xuất gia và thấm nhuần nền giáo dục Phật giáo.
Khi đứa trẻ đến tuổi đến trường, cha mẹ lại gửi vào chùa để các sư dạy giáo lý, kinh kệ, dạy đạo đức làm người, dạy cách ăn nói, đi đứng… Nhà sư luôn luôn kề cận gần gũi, hướng dẫn chỉ bảo trong mọi sinh hoạt học tập trong các cơ sở tự viện Phật giáo. Sau này khi đứa trẻ trưởng thành và hoàn tục thì vị sư vẫn là người thầy, người bạn, là nơi nương tựa mỗi khi gặp khó khăn, trắc trở trong cuộc sống. Trong thời gian đứa trẻ được gửi lên chùa, cha mẹ phải thường xuyên dâng cúng phẩm vật cho các sư trong chùa để tỏ rõ trách nhiệm và lòng thành kính.
Trong quan niệm của người Lào các nam thanh niên đến tuổi trưởng thành, đã qua thời gian ở chùa được coi là những người chín chắn, còn nếu chưa từng ở chùa, thì dẫu sống đến già vẫn bị coi là người chưa chín chắn. Trong cuộc sống của người Lào, nếu khi cha mẹ tật bệnh hoặc mất, hoặc khi gia đình gặp phải những điều không may mắn người ta cũng thường xin vào chùa tu một thời gian để thêm phúc đức cho người thân, cho gia đình tai qua, nạn khỏi. Người Lào cũng cho rằng, nếu trong thời gian người nam thanh niên ở trong chùa mà cảm thấy con đường tu hành là lý tưởng cao đẹp thì có thể đi tu luôn cũng được, và đây cũng là một vinh dự cho bản thân và gia đình người xuất gia. Tuy nhiên, để được là người tu sĩ gắn bó trọn đời với Phật pháp, việc tuyển lựa cũng phải qua rất nhiều khâu kỹ càng và cẩn trọng theo đúng truyền thống Phật giáo.
Trong những ngày hiện đại, giáo dục đã mở rộng ra ngoài các bức tường của các tu viện. Giáo dục tu sĩ vẫn là điều cần thiết để tiếp tục, để cải tiến ngày càng nhiều để bắt kịp giáo dục thế giới về chất lượng và tiêu chuẩn hóa. Trong bài báo này, tôi sẽ thảo luận chủ yếu về giáo dục Phật giáo ở Lào dựa trên các cơ sở giáo dục cao hơn của Phật giáo, các trường Cao đẳng Saṅgha, nơi nghiên cứu Phật giáo đặc biệt được thực hiện.
Bối cảnh lịch sử của hai ngôi trường Tăng già Phật giáo
Hai ngôi trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo đã phát triển theo các khoảng thời gian và địa điểm khác nhau. Những đặc điểm lịch sử của nó, được viết riêng để đậm nét về nó.
Dưới chế độ thống trị của Pháp, các mặt kinh tế, chính trị đều bị Pháp khống chế, các mặt văn hóa, giáo dục, tôn giáo đều không được coi trọng. Tuy nhiên, trong truyền thống dân tộc, tuyệt đại đa số nhân dân Lào đều theo Phật giáo, nên vẫn duy trì tinh thần tín ngưỡng trong dân gian. Phương thức giáo dục của người Lào đặt trên cơ sở Phật giáo; cơ sở tự viện Phật giáo là trường học, sư trụ trì ở chùa là hiệu trưởng, sư tăng là giáo viên, chuyên giảng giáo lý cho giới thiếu niên này. Chính người Pháp cũng không thể nào ngăn cấm được truyền thống giáo dục này
Phong tục của người Lào cũng như Thái Lan, Myanmar và Campuchia, trong lứa tuổi thanh thiếu niên, tất cả nam giới, không kể thuộc quý tộc hay bình dân đều phải đến chùa làm sa di hay tỳ kheo để theo giới luật và nghiên cứu Phật học. Thời gian xuất gia dài, ngắn, hoặc suốt đời đều do từng cá nhân tự nguyện. Một người xuất gia ở chùa trong thời kỳ này, thì gia đình được tín đồ trong vùng giúp đỡ.
Năm 1914, tại thủ đô Luang Prabang đã xây dựng Trường dạy Pali cao cấp (Pali High School), tiến hành dạy cho thanh niên xuất gia trong vòng 4 năm; đồng thời, còn quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức hiện đại về văn hóa mới.
Về sau, ngôi trường này được đổi thành Học viện (College) và chỉnh đốn hoàn mỹ, hệ thống cao cấp hơn trước. Năm 1933, thành lập những trước dạy Pali sơ cấp nhiều đô thị khác, có đến 400 ngôi trường theo kiểu mẫu đó.
Trường Đại Học Tăng già Phật giáo (Buddhist University) được thành lập năm 1955 (Preah Siharu Raja). Năm 1925, Chính phủ cho xây dựng Thư viện Hoàng Gia tại Luang Prabang, tập trung nhiều tư liệu quý giá Phật giáo nhiều nước, đồng thời vạch ra kế hoạch chỉ đạo Phật giáo. Năm 1930, thành lập Viện Nghiên cứu Phật giáo (Buddhist Institute).
Năm 1932, lại lập ra "Tam tạng Ủy Viên Hội" (Tripitaka Board) do Chính phủ chỉ định, bao gồm nhiều học giả Phật học nổi tiếng, để biên soạn và ấn hành kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali và tiếng Lào. Tổng số kinh sách lên đến 110 bộ.
Năm 1954, Lào được độc lập, nhưng chính trị và quân sự ở trong tình trạng chia cắt, chủ yếu là 3 thế lực: phái Hữu, phái Tả và phái Trung lập.
Năm 1961, Hiến pháp Lào ban hành. Điều 7 của Hiến pháp nêu rõ: "Phật giáo là quốc giáo; quốc vương là người bảo hộ cao nhất".
Điều 8 của Hiến pháp ghi rằng: "Quốc vương phải là tín đồ Phật giáo nhiệt thành". Những điều khoản khác, ít nhiều đều theo tinh thần đó. Nhân dân Lào đều là tín đồ Phật giáo nhiệt thành; chỉ có một bộ phận dân tộc ít người mới theo đạo Thiên chúa, hay Khổng giáo. Người Khả thờ đạo Tổ Tiên, người Mèo thờ vật linh, một ít người Thái thờ cúng quỷ thần.
Sau khi quốc gia Lào giành được độc lập năm 1953 (Phật lịch 2496), trường được chuyển đến ngôi già lam cổ tự Wat Ongtue Mahavihara, quận Chanthaboury, thủ đô Vientiane, đổi thành Viện Pali, mở rộng cho tất cả tăng sĩ và những người vừa tốt nghiệp Trung học Phật giáo. Học viện đã đưa ra một chương trình bốn năm bao gồm cả lớp chuẩn bị. Lần này có thêm các chủ đề, ví dụ như các môn địa lý, lịch sử và pháp văn.
Năm 1967 (Phật lịch 2510), về mặt quản lý, Viện Pali được chuyển sang Bộ Giáo dục quốc gia Lào hệ đại học chính quy; sau đó được đổi danh xưng Viện Giáo dục Phật học, nơi có hai giảng viên người Thái Lan, một giảng viên người Pháp, một giảng viên người Anh và một giảng viên người Ấn Độ, cung cấp thêm các môn sư phạm, triết học phương tây, triết học và tôn giáo Ấn Độ.
Năm 1976 (Phật lịch 2519), về mặt học thuật, Học viện bắt đầu cung cấp Chương trình Cao đẳng Phật học 6 năm, tương đương với Bằng cử nhân Phật học. Sinh viên hoàn thành Chương trình có thể dạy các trường tiểu học và trung học đào tạo. Lần này, nó thuộc trách nhiệm của Bộ Giáo dục Đào tạo.
Năm 1996 (Phật lịch 2539), Học viện đã được đổi danh xưng Trường Đại học Phật học Tăng già (Sangha Buddhist), và vẫn giữ danh xưng ấy đến nay. Nó cung cấp một chương trình bốn năm, cao hơn Bằng Diploma, tương đương với Bằng cử nhân. Nó được chia thành hai khoa: Khoa Giáo dục và Khoa học nghệ thuật, dưới sự bảo trợ của Bộ Giáo dục quốc gia Lào, tổ chức học bổng Phật giáo Lào và phối hợp với mặt trận Lào xây dựng quốc gia.
Cho đến nay, Trường Cao đẳng Phật học Tăng già (Sangha Buddist) đã đào tạo 258 sinh viên tốt nghiệp ra trường, họ có thể tiếp nối sự nghiệp giáo dục tiền nhân, để giảng dạy trong các trường trung học Phật giáo và làm việc hành chính trong các văn phòng Phật giáo ở các tỉnh khác nhau trong cả nước.
Trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo Champasak
Trước khi thành lập Trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo Champasak, giáo dục Phật giáo đã tồn tại và phát triển trong các tu viện từ bậc tiểu học Phật giáo đến trung cấp Phật học. Với sự nhấn mạnh vào hệ Pali và nghiên cứu giáo lý, đây là nhiều trường hợp ở địa phương Champasak, nơi đã có Pariyati - Kiến thức trên lý thuyết (Học pháp) – Thấy và Biết tại ngôi già lam cổ tự Wat Nakhonevanaram và một trường khác là tại Wat Yuttidhammadhara (Wat Thong). Một số môn học thế tục, đặc biệt là toán học, đã được giới thiệu trong các trường mẫu giáo. Ngoài ra, trong một số tu viện, nơi không có trường học Pariyati - Kiến thức trên lý thuyết (Học pháp) - Thấy và Biết, dạy Pali theo hình thức ghi nhớ miệng (Mukhapāda), ví dụ, Mūlakaccāyana Pali mà các thế hệ lớn tuổi của nhà sư học riêng biệt từ giáo viên của họ.
Tuy nhiên, một số đáng chú ý của Phật giáo phát triển đã diễn ra vào thời kỳ của Hòa thượng Somdet Phra Loukeo Khoun Manivong. Năm 1940 (PL.2483), Hòa thượng Somdet Phra Loukeo Khoun Manivong thành lập trường Phật học tại ngôi già lam cổ tự Wat Bodhirattanasasadaram (Wat Luang Pakse).
Năm 1942 (PL.2485) trường Pali được thành lập trong khuôn viên ngôi già lam cổ tự Wat Bodhirattanasasadaram. Giáo dục Phật giáo ở miền Nam Lào được đáp ứng nhu cầu cho các sinh viên đến từ bốn tỉnh miền nam; các tỉnh Khamuane, Savannakhet, Saravan và Champasak.
Để cải thiện giáo dục Phật giáo, các vị giáo thọ, giảng viên Phật học được gửi sang các quốc gia Phật giáo Thái Lan và Campuchia để nghiên cứu, nâng cấp nghiệp vụ.
Năm 1944 (PL.2487), Trung tâm Nghiên cứu Phật học (Indigène d'études Bouddhiques) được thành lập tại ngôi già lam cổ tự Wat Bodhirattanasasadaram dưới sự chỉ đạo của Hòa thượng Somdet Phra Loukeo Khoun Manivong, ngài đã dự Đại Hội Kết tập Kinh điển lần thứ 6 tại Myanmar vào dịp Đại lễ Phật đản, nhằm ngày 17 tháng 05 năm 1954 (PL.2498). Ngài đã góp phần vào công cuộc Kết tập Kinh điển lần thứ 6 trải qua hai năm từ 1954-1956 mới hoàn thành. Và đã được Chính phủ Myanamar trao tặng danh hiệu danh dự Aggamahāpanḍitta.
Hiện tình hình giáo dục Phật giáo ở tỉnh Champasak, đặc biệt là ngôi già lam cổ tự Wat Bodhirattanasasadaram đã nở rộ ngay cả trước khi quốc gia này giành được độc lập vào năm 1975. Sau khi độc lập, các trường Phật học Pali và Viện Nghiên cứu Phật học được đổi danh xưng trường Trung học Phật giáo, có chương trình học được áp dụng hình thức giáo dục Phật giáo đã bị thay đổi với nhiều lý do, chẳng hạn như thiếu giáo viên. . . cả hai môn học và thế tục đã được giới thiệu vào các khóa học. Từ năm 1976 đến năm 1998, nền giáo dục Phật giáo được đặt dưới sự chỉ đạo của Phraku Bhavanābhilom (Somsi Keokhiew), Thống đốc Tăng già Phật giáo tỉnh Champasak.
Năm 2004, tòa nhà trường Trung học Phật giáo cũ bị phá hủy và phục dựng lại tại ngôi già lam cổ tự Wat Dhammarangsi (Wat Thahin), quận Pakse dưới sự lãnh đạo của ngài Phra Achan Maha Suvan Chantharath, đương kim Thống đốc Tăng già Phật giáo tỉnh Champasak, người đã hoàn thành ý nguyện cuối của Acarya Phraku Somsi Keokhiew.
Năm 2005, ngài Phra Achan Maha Suvan Chantharath thành lập trường Phật học Tăng già bằng cách sử dụng tòa nhà cũ của Trường Pariyatti và Học viện Nghiên cứu Phật học. Đồng thời, việc xây dựng mới của trường Cao đẳng Phật học Tăng già vẫn đang được xây dựng, bên cạnh ngôi già lam cổ tự Wat Bodhirattanasasadaram, ở vị trí của sân quần vợt của Chính phủ. Trường Cao đẳng Phật học Tăng già Champasak bắt đầu năm học đầu tiên vào năm 2006.
Vì các văn bản kinh điển Pali là nguồn giáo lý căn bản Phật giáo, cần phải nghiên cứu Pali để có được ý nghĩa thực sự của những giáo lý trong các bản văn Pali. Hơn nữa, ngôn ngữ Lào chịu ảnh hưởng của Pali. Ví dụ, vidy ålay (Lào), từ Pāḷi Vidyālaya có nghĩa là một trường cao đẳng; Ahan (thực phẩm) có nguồn gốc từ tiếng Pali chữ 'āhāra', và ngay cả những khẩu hiệu của quốc gia bằng văn bản như s Ath ālanalat PAJ āthipatai PAJājonlao (Lào) có nghĩa là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, ở đây toàn bộ khẩu hiệu bao gồm các từ có nguồn gốc từ tiếng Pali, nhưng phụ âm "r" và "n" từ Pali đã không còn được sử dụng trong tiếng Lào, thậm chí thời gian gần đây "r" đã được giới thiệu lại vào Phụ âm Lào, nhưng thường không được sử dụng.
Hệ Pali
Các trường Cao đẳng Phật học Tăng già là Trung tâm của các nghiên cứu Phật học, trong đó các khóa học hệ Pali đã đã được thực hiện từ khi thành lập trường đến nay. Qua thời gian, các khóa học Pali đã được cải tiến. Ngày nay, ngữ pháp Pali, thành phần Pali và bản dịch cũng như văn học Pali được giảng dạy. Nhưng các khóa học được tiến hành từ các bậc tiểu học Phật học đến trình độ trung cấp Phật học, vì nó được sử dụng trong Viện Pali. Thậm chí đã từng có 9 lần Viện Pali cung cấp, tương đương với hiện tại hệ thống nghiên cứu Thái-Pali.
Các trường Phật học Tăng già Phật giáo tại Vientiane cung cấp một Chương trình bốn năm trong đó có hệ Đại học, khóa học cơ bản của Pali tùy thuộc vào hệ Pali của sinh viên, người tốt nghiệp từ các trường Cao đẳng. Chữ Tham (bảng chữ cái, chữ viết cổ có hình tròn được so sánh các bảng chữ cái của Myanamar và Shan) được sử dụng để viết Pāli, nhằm mục đích cho phép các nhà sư và người mới đọc bản thảo lá cọ.
Một số văn bản được sử dụng trong giáo lý Pali có trong sách hướng dẫn Thai-Pali, ví dụ như sách giáo khoa Pali do Somdet Phra Mahāsamaṇachao (bản tiếng Thái) soạn và một số sách giáo khoa tiếng Lào - Pāli được biên soạn bởi Ủy ban các học giả Phật giáo của Tổ chức Lao động Phật giáo Lào (LBFO), Lao- Pali Dictionary (2005) được viết bởi Tiến sĩ Sisaveuay Souvanny, từ điển Lào (hầu hết các từ Lào có nguồn gốc từ tiếng Pali) được viết bởi Tiến sĩ Thongkham Onmanisone, và một số Pali - Tiếng Anh sách giáo khoa cũng được sử dụng như tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, Đại học Quốc gia Lào cũng giới thiệu hệ Pali vào các nghiên cứu về ngôn ngữ và văn học. Hơn nữa, các thuật ngữ Pali, có liên quan đến các thuật pháp lý, cũng được giảng dạy trong các khoa luật.
Nghiên cứu Abhidhamma (A Tỳ Đạt Ma, Vi Diệu pháp)
Theo lịch sử, các nghiên cứu, A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma, Vi Diệu pháp) đã nổi bật và từng tồn tại, phát triển mạnh mẽ trong suốt những năm 1960, khi Phra Achan Mahā Pāla Anando (Thiền Vipassanā ở Wat Sokpaluang, Vientiane) thành lập năm trường A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma, Vi Diệu pháp), hai trường học ở Luang Prabang, một ở Vientiane, một ở Savannakhet và một ở Champasak. Kể từ đó, nghiên cứu truyền thống của A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma, Vi Diệu pháp) đã được truyền lại cho một số Trung tâm Thiền Vipassanā và trường Cao đẳng Phật học Tăng già.
Tuy nhiên, ở hai trường Phật học Tăng già, những khóa học A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma) chưa được giảng dạy đầy đủ. Chỉ có một khóa học cơ bản A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma) được đáp ứng nhu cầu của học sinh. Tài liệu giảng dạy được lựa chọn là cuốn sách đầu tiên của Abhidhamma Pitaka và một số sách giáo khoa hệ Abhidhamma Pitaka được biên soạn bởi Hòa thượng Sali Kantasilo. Ngoài ra, khóa học A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma) được tiến hành cùng với với thiền Vipassanā, đặc biệt là tại tu viện trong rừng, tu viện Wat Nakhounnoi dưới sự hướng dẫn của Phra Achan Mahā Sali Kantasilo. Ở đó, khóa học học A Tỳ Đạt Ma (Abhidhamma)được áp dụng có hiệu quả hơn nhiều so với trường Phật học tăng già.
Thiền Vipassana
Thực tế, các khóa tu thiền Vipassana được áp dụng khác nhau ở hai trường Cao đẳng Phật học Tăng già. Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane, vừa dạy lý thuyết lẫn thực hành trong các Phật học đường. Tuy nhiên, ở thủ đô Vientiane, khóa tu thiền Vipassana luôn áp dụng. Sau khi khóa học bốn năm được hoàn tất, các sinh viên được gửi đến thực hành tại một số thiền viện chuyên tu thiền Vipassana, đặc biệt tại ngôi già lam cổ tự Wat Nakhounnoi dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Sali Kantasilo, và tại ngôi già lam cổ tự Wat Sampak-hat thuộc Phra Achan Phoum Detsavongs và một số trung tâm Thiền Vipassanā phát triển tốt.
Ngoài ra, khóa tu thiền Vipassana cũng được giảng dạy tại trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo Champasak, các tăng sinh trung học Phật học cũng phải tham gia các khóa tu thiền Vipassana, sau khi học kỳ cuối cùng theo Hid Sipsong, 12 nghi lễ truyền thống, mỗi tháng trong năm. Khóa tu thiền Vipassana là một trong số họ, rơi vào tháng năm và được tổ chức hàng năm trong cả nước.
Một số nhận xét về chương trình học của hai trường Đại học Phật giáo Tăng già
Trong phần này, một số giáo trình và một số thống kê của hai trường Đại học Tăng già Phật giáo được đưa ra.
Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane:
Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane bắt đầu năm học đầu tiên vào năm 1996. Cho đến nay trường đã đào tạo 258 sinh viên tốt nghiệp trình độ cử nhân; các khóa học thực nghiệm đã được thực hiện.
Số sinh viên, năm học 2006-2007
Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane mở cửa cho sinh viên từ các tỉnh khác nhau trên khắp cả nước.
Các lớp học Khoa giáo dục Khoa nghệ thuật
Trong năm học 2006-2007, có tổng cộng 341 sinh viên.
Cơ cấu Hành chính: Phra Achan Mahavet Masenai, Giám đốc; Phra Achan Vongmani Homsombath, Phó Giám đốc; ông Bounthan Vongounchan, Phó Giám đốc Học vụ; ông Bounterm Sibounheung, Phó Giám đốc Hành chính.
Trong năm 2006, có 32 giáo viên, 18 vị tăng sĩ giáo thọ và 14 giáo viên. Chính quyền được chia thành ba văn phòng, cụ thể là:
Văn phòng học vấn: 9 nhân viên: 4 vị tăng sĩ và 5 giáo dân; văn phòng hành chính: 8 nhân viên: một vị tăng sĩ và 7 giáo dân; văn phòng hoạt động sinh viên: 9 nhân viên: 7 vị tăng sĩ, 2 giáo dân.
Đại học Tăng già Phật giáo Champasak:
Cao đẳng Tăng già Phật giáo Champasak với chương trình học 3 năm. Thời gian ngắn hơn, bởi vì nó không đòi hỏi học sinh phải theo học Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane. Có hai khoa, Khoa Giáo dục Sư phạm và Khoa Nghệ thuật.
Chương trình giáo dục: Các môn học chính 32 tín chỉ; Các môn kỹ thuật tổng quát 25 tín chỉ; ngành học chính 30 tín chỉ; Môn chọn lọc 03 tín chỉ; Đối tượng Phật giáo 30 tín chỉ; Toàn bộ: 120 tín chỉ
Cơ cấu hành chính: Phra Achan Mahā Suvan Chantharath, Giám đốc; Phra Achan Bounchan Horchinyavong, Phó giám đốc; Phra Maha Sipraseuth Sayapanya (Văn phòng học vấn); ông Phoxay Nuanvilay, Văn phòng đánh giá.
Có 17 giảng viên Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane: gồm 11 vị tăng sĩ giáo thọ và 6 giáo vị giáo chức. Có 3 giảng viên có bằng Thạc sĩ: một vị ở Việt Nam, một vị ở Thái Lan và một vị ở Nga; một bằng cử nhân Đại học Quốc gia Lào, ngoài Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane, còn là các cử nhân tốt nghiệp từ Thái Lan. Khi trường cao đẳng Tăng già Phật giáo Champasak được thành lập, hiện nay có 58 học sinh đang học trong năm học 2006-2007 và có hai lớp đang hoạt động. Kế hoạch tương lai của nó là để phát triển đến mức độ đại học bên cạnh trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo Vientiane và tương đương với các trường đại học công lập.
Kết luận
Như đã đề cập nêu trên, hai trường Phật học Tăng già (Sangha Buddhist) là những trung tâm giáo dục chính tại quốc gia Phật giáo Lào, cung cấp giáo dục cho các cơ sở tự viện Phật giáo, giữ gìn và phát huy các giá trị nhân văn, văn hóa Lào, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tinh thần Đạo pháp - Dân tộc. Họ không chỉ tạo ra những học giả Phật giáo trẻ, mà còn đóng góp vào nguồn nhân lực cho đất nước. Tuy nhiên, hai trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo (Sangha Buddhist) có nhiều lĩnh vực khác nhau, cần phải được cải thiện và chuẩn hóa thành cấp quốc tế. Để đạt được mức đó; Do đó hai hai trường Cao đẳng Phật học Tăng già (Sangha Buddhist) cần phải học hỏi từ những người khác để cải tiến và phát triển hệ thống giáo dục của họ cũng như các yếu tố quản lý trường Đại học đến trình độ Đại học trong tương lai.