Lời Nói Đầu:
Bài viết mang nặng tính tổng hợp, liệt kê, suy luận chủ quan, có khi phỏng định nên chỉ có tính cách dùng để tham khảo. Mong được các bậc cao minh bổ chính và chỉ giáo thêm. Xin chân thành cảm tạ.
Quảng Minh LKH
Khái quát một số nét về chữ “Tâm” trong đạo Phật
“Tâm” là một trong những từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống thường nhật (tâm,tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình… với biết bao nổi niềm vui buồn, thương ghét…) cũng như cũng rất phổ thông, phổ dụng trong đạo Phật . Lý do vì đạo Phật là đạo tu Tâm. Nhưng “Tâm là gì ? Tâm ở đâu ? Tu tâm là tu như thế nào ..lại là các điều cần được nắm vững. Ngoài ra lại có khá nhiều từ ngữ có liên hệ rất mật thiết với chữ “Tâm” như các chữ Tánh, Thức, Ý, Ý Thức, Tình Cảm, Xúc Cảm, Tư Duy, Lo Nghĩ, … Điều này khiến người học Phật khó tránh khỏi những hoang mang, mờ mịt, ngờ vực vì khó có thể phân định chuẩn xác được các phạm trù về ý nghĩa của chữ “Tâm” trong đạo Phật.
Thông thường, có thể phân biệt tổng quát có hai thứ tâm: (1) “Tâm Vật Thể” là trái tim thịt thuộc về bộ máy tuần hoàntrong cơ thể, được gọi là “Nhục Đoàn Tâm” trong đạo Phật, và (2) “Tâm Tính Năng” là những tình cảm, xúc cảm, tư duy, phân biệt, lo nghĩ.. có nơi tâm thức. Đạo Phật không đề cập nhiều đến Tâm Vật Thể , mà đặt trọng tâm vàoTâm Tính Năng” với các phần đi từ cạn cợt, vọng huyễn, phiền não như những tình cảm, xúc cảm, tư duy, phân biệt,lo nghĩ..dễ thấy biết đến các phần sâu xa vi tế , chân thật, trong sáng, thanh tịnh khó thấy biết (mà phần sâu xa vi tế nhất chính là Phật Tánh, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, Tri Kiến Phật, Như Lai Tàng Bản Thể..) nơi Tâm Tính Năng này.
Hầu như toàn bộ kinh điển đạo Phật (3 Thừa, 12 Bộ Kinh) đều nhằm nói về tâm. Ở đây chỉ trích một vài đoạn kinhtiêu biểu trực tiếp nói về Tâm trong các kinh thường được biết đến nhiều nhất.
Kinh Pháp Cú (phẩm Song Yếu) xác quyết vai trò chủ yếu của Tâm trong việc tạo tác ra tội - phước : “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe”, và “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịmh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui vẽ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bóng theo hình “ .
Kinh Hoa Nghiêm khai thị về cội nguồn Tâm của ba đời mười phương chư Phật “Nhược nhơn dục liễu tri, Tam thếthập phương Phật, Ưng quán pháp giới tánh, Nhứt thiết Duy Tâm tạo” ( Tạm dịch” Như ai muốn rõ biết, Ba đời mười phương Phật, Nên quán tánh pháp giới, Tất cả Duy Tâm tạo”).
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật khai thị nơi Tâm của chúng sanh đều có sẵn đầy đủ Pháp Giới thân của chư Như Lai:
“Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên, khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tướng phụ của Phật. Tâm tưởng niệm Phật, tâm quán tưởng Phật thì tâm ấy chính là Phật”.
Kinh Tâm Địa Quán cũng xác quyết vai trò căn nguồn, cội gốc chủ yếu của Tâm Tính Năng này trong tu hành giải thoát:
“Tam giới chi trung Tạm dịch: ( Ở trong ba cõi
Dĩ tâm vi chủ Lấy tâm làm chủ
Năng quán tâm giả Người hay quán tâm
Cứu cánh giải thoát Rốt được giải thoát
Bất năng quán giả Người không quán tâm
Cứu cánh trầm luân Rốt rồi trầm luân
Chúng sinh chi tâm Tâm nơi chúng sinh
Du như đại địa Ví như ruộng đất
Ngũ cốc ngũ quả Các loài thực vật
Tùng đại địa sanh Theo đất mà sanh
Như thị tâm pháp Tâm pháp cũng thế
Sanh thế xuất thế Sanh ra thế gian
Ngũ thú thiện ác Năm đường thiện ác
Hữu Học Vô Học Thanh Văn La Hán
Độc Giác Bồ Tát Độc Giác Bồ Tát
Cập ư Như Lai Cả đến Như Lai
Dĩ thị nhân duyên Bởi nhân duyên này
Tam giới duy tâm Ba cõi chỉ (là) Tâm
Tâm danh vi địa.. Tên tâm gọi (là) đất…)
Duy Thức Học dựa trên Pháp Tướng đã phân định rõ vũ trụ vạn hữu được bao gồm trong 100 pháp (Đại Thừa Bách Pháp). 100 pháp này đều có liên hệ mật thiết ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đến chữ “Tâm”, trong đó Tâm Vật Chất thuộc về Thân Căn ( chỉ là một trong 11 món của Sắc Pháp).
100 pháp được phối hợp và liệt kê , chỉ kể tên ra theo 5 loại là:
“Bát Thức Tâm Vương’ gồm có:
Nhãn thức (Thấy Biết, Phân Biệt Sắc Trần nơi Mắt)
Nhĩ thức (Thấy Biết, Phân Biệt Thanh Trần nơi Tai),
Tỷ thức (Thấy Biết, Phân Biệt Hương Trần nơi Mũi),
Thiệt thức (Thấy Biết, Phân Biệt Vị Trần nơi Lưỡi),
Thân thức (Thấy Biết, Phân Biệt Xúc Trần nơi Thân),
Ý thức (còn gọi là Thức 6th, = Liễu Biệt Cảnh thức = Phân Biệt Sự thức = Phân Ly thức) (= Thấy Biết, Phân BiệtPháp Trần nơi Ý Thức). Sự phân biệt Lục Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) trội bật nhất là ở nơi Ý Thức, vì Ý Thức có công năng phân biệt mạnh mẽ nhất. Năm thức trước (Tiền Ngũ Thức = Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân ) chỉ cócông năng chính là tiếp thu trần cảnh, còn công năng phụ là phân biệt về Tánh Cảnh của cảnh trần (sự phân biệt nàyxuất phát từ Ngũ Câu Ý Thức = phần Ý Thức chuyên biệt có nơi 5 căn Nhãn Nhĩ Tỹ Thiệt Thân).
Mạt Na thức (còn gọi là Thức 7th, = Ý = Ý Căn, Căn của Ý Thức = Tư Lương thức) = dòng tư lương vi tế bất tận với thấy biết vướng chấp nặng về Năng - Sở, về Ngã - Ngã Sở Hữu, = Ngã – Pháp.
A Lại Da thức (còn gọi là Thức 8th = Tàng Thức = A Đà Na Thức = Dị Thục Thức = Tâm Sanh Diệt) = kho chủng tử, tàng chứa tất cả thành quả của Thấy Biết , Nhận Thức thức từ bảy Thức trước. Thành quả này được gọi là Nghiệp Thức, cấu chất của chủng tử).
Ba chữ thường được nhắc đến nhiều là “Tâm”, “Ý”, và “Ý Thức” đến đây đã được Duy Thức Học minh định rõ: Tâm làA Lại Da thức = thức 8th, Ý là Mạt Na thức = thức 7th, và Ý thức = thức 6th. Điều này đã được xác quyết ở Luận Đại Thừa Khởi Tín.
51 Tâm Sở pháp này gồm có:
5 món Biến Hành (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư),
5 món Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Tuệ),
11 món Thiện ( Tín, Tinh Tấn, Tàm, Quí, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại),
6 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến),
20 Tùy Phiền Não (Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu, Vô Tàm, Vô Quí, Bất Tín, Giải Đải, Phóng Dật, Hôn Trầm, Trạo Cử, Tán Lọan, Thất Niệm, Bất Chánh Tri),
và 4 món Bất Định (Hối, Miên, Tầm, Từ).
Qua Duy Thức Học, có thể thấy A Lại Da thức chính là cội nguồn chủ yếu của tâm thức phàm phu nơi chúng ta. KhiA Lại Da thức được tinh sạch, không còn bị vướng chấp phiền não che phủ , nó sẽ trở thành Bạch Tịnh thức (Bản Thể Như Lai Tàng thanh tịnh). Đó chính là Pháp Thân Như Lai, Giác Thể vô thủy - vô chung, vô tại - vô bất tại, Đệ Nhất Nghĩa Đế, cõi Phật Vô Động, tự đầy đủ thanh lương bất biến, soi chiếu khắp pháp giới hằng nhiên tự tại. Thông thường, chúng ta chỉ biết sống với “Tâm Vật Thể” và với các Sắc pháp, chỉ biết nhiều và sống thường xuyên cùng với các phần thô phù, cạn cợt của “Tâm Tính Năng” như với 6 món Tâm Vương đầu tiên (Tiền Lục Thức: Nhãn Thức , Nhĩ Thức, Tỹ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức) cùng các món Căn Bản Phiền Não, và các món Tùy Phiền Não, ..Do vậy chúng ta quan tâm nhiều đến các món Sắc Pháp và các món Tâm Sở Phiền Não, quan tâm ít hơn đến các món Tâm Sở Thiện và các món Tâm Sở khác, và hầu như rất xa lạ với các pháp Vô Vi. Điều này đưa đến sự hình thành, phát triển tự nhiên, và tồn tại lâu dài của vô minh phiền não, chủng tử hữu lậu, chìa khóa phát khởi nghiệp thức dẫn đưa vào sáu đường sinh tử luân lưu, bất tận trong ba cõi.
Kinh Pháp Cú ( phẩm “Tâm”) có câu “Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, xao động, không dễ nắm bắt. Chỉ những người nào đã điểu phục được tâm mình mới được an vui”. Do đây, tâm ý phàm phu thường được ví như khỉ, như ngựa (“Tâm viên, ý mã”).
Ngài Thần Quang (về sau là Nhị Tổ Huệ Khả) thưa với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma :”Tâm con không an xin Thầy dạy conpháp an tâm”. Sơ Tổ nói: Hãy đem tâm của ông ra đây, ta sẽ an cho”. Thần Quang đáp “Con tìm tâm mà chẳng thấy”.Sơ Tổ bảo “Vậy là ta đã an tâm cho ông rồi”. Từ đây, ngài Thần Quang đã được pháp an tâm. ( = Cái tâm mà Ngàiban đầu tưởng là không an chỉ là những tâm sở thô phù, là phiền não, là pháp sanh diệt, chợt có chợt mất, chợt đến chợt đi theo các duyên trần. Khi tâm ta còn phan duyên và bị vướng mắc vào phiền não, tâm chỉ thấy hiện ra cóphiền não nên ta dễ có ý cho rằng phiền não chính là bản tâm ta. Chỉ cần một lời dạy đơn giản là “hãy đem tâm ra đây” khiến ngài Thần Quang xoay lại quán chiếu nơi bản tâm sẽ thấy phiền não huyễn hóa tự nhiên biến mất, liền được trở về với thanh tịnh bản nhiên tự có nên đó chính là pháp an tâm vậy).
Luận Đại Thừa Khởi Tín xác minh sự khởi phát của ba thức cơ bản của Bát Thức Tâm Vương là A Lại Da Thức, Mạt Na Thức, và Ý Thức như sau:
(Ba tướng Vô Minh Nghiệp, Kiến Phần, và Tướng Phần này được gọi chung là Tam Tế trong Đại Thừa Khởi Tín Luận. Tế 1st minh định sự hình thành A Lại Da thức, hai tế sau 2nd và 3rd, minh định sự hình thành Mạt Na thức).
Vậy bản thể của tâm là Giác Tánh thanh tịnh luôn có sẵn, chỉ vì Tâm bị chao động trước cảnh trần mà khiến có Bất Giác. Bất Giác chính là sự Động Tâm, cũng chính là Vô Minh vi tế nhất, sâu xa nhất so với các Vô Minh thô phù bên ngoài (như các Tâm Sở phiền não Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến)…Các tông phái đạo Phật đều có cứu cánhnhắm đến chổ loại trừ, buông bỏ Vô Minh vi tế về sự động tâm này. Như Tịnh Độ tông với pháp môn “Niệm Phậtnhất tâm bất loạn”, Mật Tông với pháp môn Tam Mật Tương Ưng, Thiền Tông với pháp môn Chỉ Quán…
Mỗi động thái của Bản Giác đưa đến sinh khởi của một tâm với tướng trạng khác nhau và vì vậy tên gọi (danh xưng) cũng khác nhau. Từ chổ Tâm bị động, vọng niệm được phát khởi, mỗi vọng niệm phát khởi lại là một dạng tâm sở, mỗi tâm sở lại có thể tương ưng với một dạng loại phiền não, nên thực tế không phải chỉ có 51 tâm sở như Duy Thức Học đã tổng quát hóa, tóm gọn lại , mà có vô lượng tâm sở, vô lượng phiền não rồi. Điều an ủi là dù có vô lượngphiền não, nhưng chúng sanh cũng có vô lượng Bồ Tát sẵn sàng cứu giúp vượt qua chúng. Vô lượng phiền nãothường được tượng trưng với con số 84,000 trong đạo Phật như nếu có 84,000 phiền não thì cũng có 84,000 vị Bồ Tát hoặc có 84,000 pháp môn giải thoát…Các Bồ Tát này quí hóa thay lại có sẵn đủ , ở ngay nơi cội nguồn tâm thứccủa mỗi chúng sanh nên chúng sanh chỉ cần “Hồi Đầu”, thì tức khắc “Thị Ngạn” ngay. Mỗi một niệm Giác là một Bồ Tát, từ nơi có “Hữu Tình Giác’ mà khiến có nên “Giác Hữu Tình”. Do vậy Lục Tổ đã nói “Không ngại niệm khởi chỉ e giác chậm”. Đây cũng là ý nghĩa của phẩm “Tùng Địa Dẫn Xuất” trong kinh Pháp Hoa (có vô số Bồ Tát từ đất tâm vọt lên để hộ trì kinh, không cần đến các Bồ Tát ở các phương khác).
Kinh Duy Ma Cật phân biệt về các tâm với tên gọi khác nhau có được trên tiến trình tu tập, dựng xây cõi Tịnh Độ, kể tên sơ lược một số tên gọi : 1st là Trực Tâm = tâm không cong vạy, thẳng hướng về bản thể Chơn Như, 2nd là Thâm Tâm = tâm tinh tấn đi sâu vào Chơn Như, 3rd là Bồ Đề Tâm = tâm thể phát sáng, cảm nhận được chất liệu trí tuệ - an lạc nơi Chơn Như, 4th là Hồi Hướng Tâm = tâm dụng từ Chơn Tâm hướng đến lợi ích cho chúng sanh…để dần dà cóThanh Tịnh Tâm rồi có cõi Tịnh Độ (Phật quốc). Ở đây, kinh Duy Ma Cật xác minh tu tâm không dừng lại ở phương tiện phá dẹp, buông bỏ phiền não nơi các Thức vì đây chỉ giống như hớt bọt trên mặt biển nổi sóng mà không biết đến nguyên nhân sâu xa khiến phát sinh bọt biển chính là do nước biển yên lành đã bị chao động theo những cơn gió từ các duyên trần cảnh từ bên ngoài. Kinh đã nhấn mạnh đến nơi cứu cánh, nổ lực hướng thẳng đến Chơn Tâm bản tánh, tinh tấn cho đến khi thành Phật.
Một vị tăng hỏi thiền sư Thiên Nhan: “Thế nào là Lý Bản Thường ?”. Thiền sư Thiên Nhan đáp : “Động”.. Vị tăng lại hỏi “Khi động thì sao ?”. Ngài đáp : “Chẳng phải Lý Bản Thường”. Ở đây, câu trả lời của thiền sư Thiên Nhan không nhằmgiải đáp cho chính câu hỏi (phát khởi từ nguồn thức 6th,thức 7th , và thức 8th của học tăng) mà đã rốt ráo hơn, cụ thểhơn, từ bi thiết thực hơn nhổ đinh, tháo chốt thẳng vào ngay nơi động thái của Bản Giác nơi người nêu ra câu hỏi vậy. Thiền Sư sau đó đã khai thị tiếp về việc “Nhận” và “Chẳng Nhận” (động thái vi tế hơn ở nguồn tâm của học tăng): “Nhận tức chưa thoát khỏi căn trần, còn chẳng nhận thì còn hằng chìm trong sanh tử” .
Kinh Duy Ma Cật, phẩm 12 “Kiến A Súc Phật” khai thị về cõi nước Diệu Hỹ cũng nhằm vào ý nghĩa này: khi tâm thức không bị chao động trước cảnh trần, quán chiếu thấu được “Thực Tướng” ngay nơi tự thân sẵn đủ thì chính lúc đó là quốc độ Diệu Hỷ rồi. Tâm “Hỷ Lạc” ở đây có ý nghĩa thắng vượt qua các tâm Hỷ Lạc nơi Tục Đế thế gian (tâmvui thích vì được thành toại tham dục với cảnh trần bên ngoài), cũng thắng vượt qua các tâm Hỷ Lạc của thiền cảnhcõi trời Sắc Giới (Ly Sanh Hỷ Lạc = Xa rời ngũ dục thế gian mà tâm được vui thích, Định Sanh Hỷ Lạc = Tâm khôngcòn chao động với ngũ dục thế gian mà được vui thích.), nên được gọi là Diệu Hỷ (cái vui mầu nhiệm bất khả tư nghìmà ai cũng sẵn có đầy đủ nhưng lại thường hay bị bỏ quên nên không thể biết về nó và không thể sống với nó).
Cuộc vấn đáp giữa ngàiTriệu Châu (người hỏi) và thầy mình là Tổ Nam Tuyền (người đáp) minh định tâm Vô Động(gọi là Tâm Bình Thường ở đây) với ý nghĩa Tâm Bình Thường không phải là tâm hằng ngày thường khiến ta bận bịu, phiền não vướng chấp theo duyên trần, nghĩ ngợi lăng xăng phải -quấy, tốt xấu, khen chê, thương- ghét) mà Tâm Bình Thường chính là Đạo, là tâm ở nơi cội nguồn thanh tịnh, nơi đó không còn có vọng động, khiến tâm xa lìa các ý niệm về tiến – lùi, nghĩ ngợi, nhận biết theo duyên trần của Ý thức, Mạt Na thức, A Lại Da thức.
Ngay câu nói này, thiền sư Triệu Châu được ngộ lý.
Như trên đã nói, đạo Phật chính là đạo về Tâm. Nhưng nếu cho rằng đạo Phật là đạo Duy Tâm thì cần khéo hiểu ýnghĩa của chữ Tâm này, chữ Tâm với ý nghĩa trọn vẹn, bao trùm đầy đủ các pháp giới từ thô đến tế, từ cạn cợt đến vào sâu suối nguồn ẩn kín, chữ Tâm vượt qua khỏi các phạm trù “Duy” và “Chẳng Duy” với nhậm vận diệu dụng “Bất Biến mà Tùy Duyên”, và tuy là “Tùy Duyên nhưng lại Bất Biến” .
Còn nếu cho rằng đạo Phật là đạo Vô Thần, thì cần khéo hiểu ý nghĩa về bản thể và diệu dụng của nguồn tâm thểbản hữu. Chính ngay từ ngữ “Vô Thần” đã bị vướng chấp vào hai ý niệm: 1st là ý niệm về Vô - Hữu (Có - Không), 2ndlà ý niệm về “ Là (Thần) - Chẳng Là (Thần)”. Hai ý niệm này còn thuộc phạm trù của các Thức (Ý thức, Mạt Na thức,A Lại Da thức), chưa chạm vào đến nơi cội nguồn bản thể thanh tịnh của A Lại Da thức là Bản Giác hằng nhiên thanh tịnh mà chiếu soi cùng khắp, vượt qua tất cả ý niệm về không gian và thời gian, về Có –Không, về Là-Chẳng Là . Đó là diệu dụng bất khả tư nghì của cội nguồn Chơn Tâm Thường Trú “thanh tịnh bản nhiên, “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, chu biến pháp giới” (kinh Thủ Lăng Nghiêm). Cội nguồn này là nơi xuất sanh và cũng là nơi trở về (sanh hay diệt tùy theo các nhân duyên tụ tán) của vô lượng sanh thể, sanh khí, sanh tướng của chúng sanh , bao gồm tất cả dạng loài chúng sanh trong ba cõi ( Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới), trong sáu đường (Trời, Người, thần A Tu La,Ngạ Quỉ, Súc Sanh, Địa Ngục), và cả mười pháp giới (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và sáu đường nêu trên).
Như thế, gán ép cho “Tâm” nói riêng và cho đạo Phật nói chung bất kỳ một danh hiệu nào, một nhãn hiệu nào… đều không chuẩn xác và xứng hợp hoàn toàn. Bởi vì Tâm nơi cứu cánh chính là nguồn sống thiên sai vạn biệt của tất cảchúng sinh mà ở tận cùng nguồn sống ấy lại là giác thể thanh tịnh bản hữu chung cùng, bản vị bình đẳng nơi mỗi sinh linh. Đây cũng chính là điểm tinh yếu vô cùng đặc sắc và độc đáo của đạo Phật Đại Từ - Đại Bi - Đại Hỷ - Đại Xả vậy.