Chánh trong Bát Chánh Đạo
***
Chánh pháp (正法 → Pháp chân chính; P: Saddhamma; S: Saddharma; E: The true dhamma):
Tuy rằng đức Phật đã dạy là mỗi người hãy tự mình nương tựa mình, tự mình là ngọn đèn thắp sáng con đường mình đi, nhưng vì chúng sinh phàm phu quá tối tăm nên cần phải dựa vào ngọn đèn Chánh pháp.
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật dạy: “Hãy dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.”
Chánh pháp mà đức Phật đã chỉ dạy thật chẳng phải do đức Phật chế tác ra, mà là chân lý vốn hiển hiện nơi vũ trụ, nơi cuộc sống. Nhưng do không nhận ra Chánh pháp mà chúng sinh đã tự tạo ra phiền não cho mình.
Theo nhiều bộ kinh như Tương Ưng Bộ kinh (P: Saṃyutta Nikāya), kinh Đại Duyên (P: Mahānidāna-sutta) hay kinh Phật Tự Thuyết (P: Udāna), thuộc Tiểu Bộ kinh (P: Khuddaka-nikāya), tập 1. Chánh pháp không gì khác hơn là chân lý Duyên khởi và đạo đức Duyên khởi được ứng dụng trong Bát Chánh Đạo.
Trong 8 chi phần của Bát Chánh Đạo thì Chánh kiến (= Chánh tri kiến) chính là nhận thức nguyên lý Duyên khởi, là nhận thức nền tảng chủ đạo cho 7 chi phần còn lại (từ Chánh Tư duy đến Chánh Định) biểu hiện giá trị cả về Chân lý và Đạo đức trong đạo Phật – đó là chân lý Duyên khởi và đạo đức Duyên khởi.
Thành tựu Bát Chánh Đạo là đồng nghĩa với mọi hành động của hành giả trong cuộc sống đều có nền tảng vững chắc trên Chánh tri kiến, là Niết-bàn hiện thực tại chính thế gian này vậy.
1) Chánh tri kiến (正知見; P: Sammā-diṭṭhi; S: Samyag-dṛṣṭi; E: Right view, Right understanding) = Phật tri kiến (佛知見; P: Tathāgata-ñāṇa-dassana; S: Tathāgata-jñāna-darśana; E: The penetrative power of Buddha's wisdom).
- Chánh = Chánh pháp (正法; P: Saddhamma; S: Saddharma; E: Right Dharma): Là chân lý Duyên khởi đã được đức Phật Thích Ca chứng ngộ và đạo đức Duyên khởi được diễn đạt ứng dụng từ chân lý này.
- Tri kiến (知見; P: diṭṭhi; S: dṛṣṭi; E: view // opinion): Là sự thấy biết // quan điểm. Đó là thấy (kiến) đúng lẽ thật và hiểu, biết (tri) đúng lẽ thật.
Nói đơn giản, Chánh tri kiến đặc trưng cho sự thấy biết đúng đắn về Chân lý Duyên khởi và Đạo đức Duyên khởi trên mọi đối tượng quan sát và giao tiếp (minh sát), đó là sự thấy biết rõ sự đang diễn biến (= đang là) của các Duyên nơi đối tượng ở mọi không gian và thời gian. Với nhận thức này, Chánh tri kiến chính là sự thấy biết vượt thoát tam độc Tham-Sân-Si.
Trong kinh Tương Ưng 3 có ghi :
“ Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Duyên khởi “.
Hay:
“ Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật “.
Pháp nơi đây là Chân lý khách quan tự nhiên, và Phật là Giác ngộ-Giải thoát vậy.
Những diễn đạt cụ thể chính yếu về Duyên khởi bao hàm Chân đế và Tục đế:
1/. Lý Vô thường - Lý Vô ngã: (*)
- Vô thường (無常; P: anicca; S: anitya; E: impermanence)
- Vô ngã (無我; P: anattā; S: anātman; E: no-self, not self, non-ego)
2/. Lý Nhân Quả (因果; P;S : Hetu-phala; E: Cause and Effect).
Từ lý Nhân Quả, tức Nhân Duyên Quả, cấu trúc Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên được hình thành.
3/. Lý Trung đạo (中道; P: Majjhimā-paṭipadā; S: Madhyamā-pratipad; E: Midle Way).
Nguyên lý chân lý Duyên khởi còn gọi là lý Không. Theo đó, Duyên khởi tính = Không tính = Trung tính là các cách diễn đạt đa dạng thích nghi với cảnh trạng.
Bài kệ 18, Phẩm 24 “Quán Tứ Đế của Trung Luận đã chỉ ra mối tương quan nhất quán giữa Nguyên lý chân lý Duyên khởi và các cách nhìn về Trung đạo và Không tính (= tính Không) như sau:
眾繇 緣 生 法 Chúng do Duyên sanh pháp
我 說 即 是 空 Ngã thuyết tức thị Không
亦 為 是 假 名 Diệc vi thị Giả danh
亦 是 中 道 義 Diệc thị Trung đạo nghĩa
Mọi pháp từ các Duyên
Ta nói tức là Không
Cũng gọi là Giả danh
Cũng là nghĩa Trung đạo.
Trong kinh Maha Nidana, Trường A Hàm - đức Phật nói :
“Vì không hiểu biết thấu đáo giáo lý Duyên khởi này, nên chúng sinh sống trong cảnh rối loạn như tơ vò”.
Chánh tri kiến được xem là chi phần quan trọng nhất, là động lực chính trong Bát Chánh Đạo, dẫn hướng cho bảy chi phần còn lại. Với Chánh tri kiến thì có thể chắc chắn rằng suy tưởng (tư duy) sẽ đúng lẽ thật và trong sáng, và khi suy tưởng này thuần thục thì lời nói (ngữ) và hành động (nghiệp) cũng sẽ đúng không khác. Chánh tri kiến sẽ soi sáng sự nỗ lực (tinh tấn) có lợi cho việc nhớ nghĩ (niệm) và việc chuyên chú (định). Tất cả đều hướng về thấy-hiểu đúng lẽ thật.
2) Chánh tư duy (正思唯; P: Sammā-saṅkappa; S: Samyak-saṃkalpa; E: Right thought): Đó là suy nghĩ, suy tưởng như Chánh pháp, là nghiệm xét đúng lẽ thật, hợp với Chánh tri kiến. Nói cách khác, Chánh tư duy là mọi suy nghĩ, suy tưởng vượt thoát tam độc Tham-Sân-Si. Nội dung Chánh tư duy có thể thực hiện như sau :
1/. Giải trừ các ý nghiệp bất thiện Tham-Sân-Si đã tạo tác bằng cách thực hành các ý nghiệp thiện viễn ly như bố thí, khoan dung.
Ý dẫn đầu các pháp Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiễm ô Nếu với ý thanh tịnh
Nói năng hay hành động Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau An lạc bước theo sau
Như xe theo vật kéo. Như bóng không rời hình.
Kệ Pháp Cú 1. Kệ Pháp Cú 2.
2/. Tư duy theo tinh thần của lý Từ Bi-Trí Tụê (thuộc đạo đức).
3/. Quán chiếu “Ngoài sự tư duy đúng lẽ thật, không có người tư duy đúng lẽ thật” (thuộc chân lý). “Như lý tác ý” là một dạng của Chánh tư duy.
Chúng ta biết rằng tuy Tham-Sân-Si được xếp vào các độn sử (khó đoạn trừ), nhưng Si theo tinh thần của Bát Chánh Đạo là chướng ngại cần triệt phá sớm với Chánh tri kiến, nhằm để dần đoạn diệt 2 chướng ngại còn lại là Tham, Sân. Bát Chánh Đạo vì thế có nét của phương châm “Đốn ngộ, Tiệm tu ”.
3) Chánh ngữ (正語; P: Sammā-vācā; S: Samyak-vāk; E: Right speech) : Đó là lời nói như Chánh pháp để diễn đạt ý tưởng đúng lẽ thật, tức hợp với Chánh tri kiến, nghĩa là Chánh ngữ gồm những lời nói không do động cơ từ tam độc Tham-Sân-Si. Nội dung Chánh ngữ có thể thực hiện như sau:
1/. Giải trừ các khẩu nghiệp bất thiện đã tạo tác bằng cách thực hành các khẩu nghiệp thiện 16 điều đạo đức [điều 4-:-7 ở phần Khẩu nơi 10 điều đạo đức – Thập thiện, được suy rộng].
2/. Nói năng theo tinh thần của lý Từ Bi-Trí Tuệ (thuộc đạo đức).
3/. Quán chiếu “Ngoài sự nói đúng lẽ thật, không có người nói đúng lẽ thật” (thuộc chân lý).
4) Chánh nghiệp: (正業; P: Sammā-kammanta; S: Samyak-karmānta; E: Right action): Đó là hành động của thân như Chánh pháp, theo g đúng lẽ thật, tức hợp với Chánh tri kiến, nghĩa là Chánh nghiệp là mọi hành động không do động cơ từ tam độc Tham-Sân-Si. Nội dung Chánh nghiệp có thể thực hiện như sau :
1/. Giải trừ các thân nghiệp bất thiện đã tạo tác bằng cách thực hành các thân nghiệp thiện.
2/. Hành động của thân theo tinh thần của lý Từ Bi-Trí Tuệ (thuộc đạo đức).
3/. Quán chiếu “Ngoài sự hành động đúng lẽ thật, không có người hành động đúng lẽ thật” (thuộc chân lý). Nói cách khác, đây là hành động vượt thoát không dính mắc – Duy tác (惟作; P: Kiriyā; S: Kriyā; E: Only-action).
5) Chánh mạng: (正命; P: Sammā-ājīva; S: Samyag-ājīva; E: Right livehood): Đó là chọn nghề sinh nhai như Chánh pháp, tức hợp với Chánh tri kiến, nghĩa là Chánh mạng là sinh sống không do động cơ từ tam độc Tham-Sân-Si. Nội dung là Chánh mạng có thể thực hiện như sau:
1/. Nghề sinh nhai không ảnh hưởng đến sự vi phạm 40 điều đạo đức (suy rộng từ 10 điều đạo đức – Thập thiện), hơn nữa lại có điều kiện thực hiện các điều đạo đức này.
2/. Nghề sinh nhai thuận theo tinh thần của lý Từ Bi-Trí Tuệ (thuộc đạo đức).
Với nội dung này, có thể thấy ngay một số nghề cần tránh như buôn bán người, buôn bán vũ khí, thuốc độc, chất say nghiện…, đầu cơ tích trữ làm lũng đoạn thị trường, nghề cho vay nặng lãi, nghề lợi dụng lòng mê tín dị đoan của con người, các nghề dịch vụ bắt chẹt trên sự thiếu hiểu biết của khách hàng…
6/. Chánh tinh tấn (正精進; P: Sammā-vāyāma; S: Samyag-vyāyāma; E: Right effort) : Đó là nỗ lực như Chánh pháp, chuyên cần trên 7 chi phần còn lại của Bát Chánh Đạo, tức hợp với Chánh tri kiến, nghĩa là Chánh tinh tấn là nỗ lực (= ý chí) không do động cơ từ tam độc Tham-Sân-Si. Nội dung Chánh tinh tấn biểu hịên qua 4 phạm vi sau:
1/. Nỗ lực tiêu trừ các bất thiện pháp đã gây ra các bất thiện nghiệp.
2/. Nỗ lực ngăn ngừa, dập tắt các bất thiện pháp đang hoặc chưa phát sinh (như phòng hộ các căn).
3/. Nỗ lực làm phát sinh các thiện pháp.
4/. Nỗ lực làm tăng trưởng các thiện pháp đã phát sinh.
Như vậy, Chánh tinh tấn thể hiện năng lực hướng tới làm chủ thân-khẩu-ý.
7) Chánh niệm (正念; P: Sammā-sati; S: Samyak-smṛti; E: Right mindfulness): Đó là nhớ nghĩ như Chánh pháp, mang tính phòng hộ [= cảnh giác thường xuyên, bởi Chánh niệm là Nhân - Tỉnh giác là Quả ] trên 7 chi phần còn lại của Bát Chánh Đạo, tức hợp với Chánh tri kiến, nghĩa là Chánh niệm là tâm niệm không do động cơ từ tam độc Tham-Sân-Si.
Chánh niệm thể hiện năng lực an lập từ nhiệm vụ không quên. Chánh niệm có thể thực hiện trên mọi việc ta tiếp xúc, ở mọi lúc như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống … với nhận diện về các pháp hợp với Chánh tri kiến cả về đạo đức và chân lý, như:
1/. Tu hướng thiện với ngoại cảnh (người và vật) xung quanh: Đó là hành giả rèn luyện hoàn thiện Đạo đức bằng việc thực hành Chánh niệm “Từ bi-Trí tuệ ” với nguyên tắc chuẩn mực sau:
“Mọi hành động đem lại lợi mình-lợi người, được xem là tốt, là thiện, là lành. Mọi hành động đem lại lợi mình-hại người hay hại mình-lợi người hay hại mình-hại người, được xem là xấu, là ác, là dữ.”
Các chi phần của Ngũ giới, Thập giới, ... đều được diễn giải theo nguyên tắc Đạo đức này. Như thế, Ngũ giới, Thập giới, ... không còn là những tín điều cứng nhắc như ở các tôn giáo khác, và hành giả sẽ tự nhiên vượt qua chướng ngại “Giới cấm thủ”.
2/. Tu hướng chân với nội tâm hành giả: Đó là hành giả tu tập hoàn thiện Chân lý bằng việc thực hành Chánh niệm trong tu thiền.
- Chánh niệm trong thiền định với một trong các đối tượng như Thập tùy niệm, Tứ vô lượng tâm, … Chi niệm Phật của Thập tùy niệm có ý nghĩa là niệm Phật định, đó là Chánh niệm danh hiệu của Phật.
- Chánh niệm trong thiền tuệ với các đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp (Tứ Niệm Xứ) được soi sáng bởi các lý như Duyên khởi – Vô thường – Vô ngã, Nhân Quả, Tùy duyên, Trung đạo, ... Nói cách khác, Chánh niệm trong thiền tuệ là soi sáng thực tại Duyên khởi nơi các pháp, như Thân Thọ Tâm Pháp, hành giả sẽ tự vượt lên các chế định pháp (Tục đế) là các khái niệm đối đãi cực đoan, cùng lúc thể nhập thực tính pháp (Chân đế).
[Xin xem thêm các mục từ về Thiền]
Thật vậy, trong kinh Tăng Chi 4, tr. 264-:-265 có ghi như sau:
“Có lần, đức Phật thuyết pháp cho ông Cấp Cô Độc về công đức của sự cúng dường. Đức Phật nói : “Cúng dường cho Phật và Tăng chúng thì có công đức rất lớn. Nhưng có công đức lớn hơn là xây tu viện cho Tăng chúng ăn ở và tu học. Có công đức lớn hơn xây tu viện là thọ Tam quy Phật-Pháp-Tăng. Có công đức lớn hơn thọ Tam quy là giữ Năm giới. Có công đức lớn hơn giữ năm giới là giữ tâm niệm Từ Bi, dù là trong giây phút. Nhưng có công đức lớn hơn tất cả, đó là quán niệm sâu sắc đạo lý Duyên khởi – Vô thường, Vô ngã – của mọi sự vật ””.
Đạo Phật là đạo tu Tâm, và thực hành tu Tâm chính là thực hành Chánh niệm trên những đối tượng tương thích, đó là:
- Từ Tâm loạn động => Tâm an lạc (khinh an và hoan hỷ) : Chánh niệm trong Thiền định.
- Từ Tâm mê lầm => Tâm sáng suốt (tuệ giác) : Chánh niệm trong Thiền tuệ.
8) Chánh định (正定; P: Sammā-samādhi; S: Samyak-samādhi; E: Right concentration): Theo kinh Đại Tứ Thập – Trung Bộ III, đó là tập trung thuần nhất như Chánh pháp, vững chải trên sự thành tựu của 7 chi phần còn lại của Bát Chánh Đạo, tức hợp với Chánh tri kiến, nghĩa là Chánh định là tâm định không do động cơ từ tam độc Tham-Sân-Si.
Chánh định là Định vô lậu, trái với Tứ thiền định của Sắc giới là Định hữu lậu. Chánh định còn gọi là Sát-na định (刹那定; P: Khaṇika-samādhi; S: Kṣaṇika-samādhi; E: Momentary concentration), là sự định tâm trên đối tượng ở mỗi danh pháp hoặc mỗi sắc pháp trong thời gian ngắn ngủi tùy theo nhân duyên của nó.
Chánh định thuộc về pháp hành thiền tuệ. Tuệ giác về Duyên khởi, tức về Vô ngã và Vô thường, là yếu tố soi sáng các Duyên sinh-diệt nơi đối tượng, vượt lên các đối đãi nhị nguyên như “đúng-sai, tốt-xấu, đẹp-xấu, hay-dở ...”, hình thành nên Sát-na định này. Nói cách khác, Chánh định biểu hiện ra một nội tâm vững chãi, tức một thái độ không loạn động trước trước mọi biến hiện của các pháp.
Khi nội tâm Vô ngã không dính mắc diễn ra, thì Chánh định nơi hành giả tự xuất hiện. Điều này có nghĩa là Định và Tuệ đồng hiện hữu nơi hành giả.
Ngoài ra, Chánh tức Chánh pháp còn diễn đạt trên nhiều hành động khác như Chánh tín (正信; P: Samma-saddhā; S: Samyak-śraddhā; E: Right belief), Chánh trí ...
Trong kinh Đế Phân Biệt Tâm – thuộc Trung Bộ kinh, khi luận về tiến trình giải thoát, đức Phật nói : “Chánh định được tu tập cùng với 7 chi phần khác của Bát Chánh Đạo sẽ dẫn đến Chánh trí, và Chánh trí [P: Sammā-ñāṇa – tức tu học chân lý để thành tựu Minh (明; P: Vijjā; S: Vidyā)] sẽ dẫn đến Chánh giải thoát (P: Sammā-vimutti)”.thái
Huy Thái