1. Kỳ quan tháp đá Báo Nghiêm
Trong quần thể cổ tích Ninh Phúc tự, tháp đá Báo Nghiêm được giới học giá chú ý hơn cả. Với lối kiến trúc tựa ngọn bút khổng lồ vươn giữa trời cao thì những hình chạm phù điêu và nghĩa lý của ngọn tháp cổ này thực sự là điều bí ẩn.
Phù điêu chạm hình thú trên tháp
Nơi Trạng nguyên trụ trì, Hoàng thái hậu tu hành
TS.Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh ngay từ khi bước vào đường sử học đã rất chú ý đến Ninh Phúc tự. Ông cho biết, đây là một trong những ngôi chùa cổ lâu đời và có quy mô lớn. Đến nay, di tích chùa vẫn còn khá nguyên vẹn theo lối kiến trúc xưa với vẻ đẹp mộc mạc, trang nghiêm.
Ninh Phúc tự từng được biết đến với nghệ thuật kiến trúc đặc sắc, phong cảnh hữu tình và sở hữu pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt bằng gỗ lớn nhất Việt Nam. Cổ tự tọa lạc trong một khu đất cao bên bờ sông Đuống và dù đã trải qua mấy trăm năm sương gió nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên vẹn thuở xưa.
Rất nhiều khách tham quan ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của Bút Tháp
Ông Nga cho biết, mặc dù là một ngôi chùa cổ và rất nổi tiếng của xứ Kinh Bắc nhưng để xác định chính xác chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra được tài liệu và căn cứ thỏa đáng. Một trong những tư liệu sớm viết về Ninh Phúc tự chính là sách “Địa chí Hà Bắc” khẳng định chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang, người đỗ Trạng nguyên năm 1272 đã trụ trì tại đây.
Thiền sư Huyền Quang vốn tên thật là Lý Đạo Tái, sinh năm 1254 người huyện Gia Bình (Bắc Ninh). Theo truyền thuyết “Tam tổ thực lục”, mẹ của thiền sư Huyền Quang là Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì tuổi đã 30 mà chưa có con.
Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy “các tòa trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A - nan - đà, bảo: “Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa”.
Năm ấy Lê Thị sinh con, đặt tên là Lý Đạo Tái. Lớn lên Đạo Tái có dung mạo dị thường, học giỏi đỗ cả thi hương, hội rồi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (Trạng nguyên) khoa thi năm 1272 và làm quan đến chức Hàn Lâm. Một hôm, Đạo Tái cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh. Đạo Tái liền nhớ lại “duyên xưa” và xin xuất gia thụ giáo. Ông được cử làm thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
Sau, ông theo lời phó chúc của Trúc Lâm trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Vì đa văn bác học, tinh thông đạo lý nên tăng chúng đua nhau đến học rất đông. Niên hiệu Đại Khánh thứ tư năm 1317, ông được Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm và tâm kệ.
Sau khi Pháp Loa tịch, Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm, nhưng vì tuổi đã cao nên ông giao phó trách nhiệm cho Quốc sư An Tâm. Huyền Quang viên tịch năm Giáp Tuất 1334, thọ 80 tuổi. Vua Trần Minh Tông sắc thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại và đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Lần giở sử tích chùa Bút Tháp và đối chiếu với những sử liệu cũ, ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh khẳng định, từ thế kỷ 17, chùa đã trở nên rất nổi tiếng với sự trụ trì của Hòa thượng Chuyết Chuyết, người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) sang Việt Nam năm 1633. Năm 1644, Hòa thượng Chuyết Chuyết viên tịch và được vua Lê phong là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”. Người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Chuyết Chuyết.
Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”.
Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ này. Đến đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một ngọn tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Kỳ quan tháp đá
Tháp Báo Nghiêm nằm trong khuôn viên chùa Bút Tháp thực sự là một công trình kiến trúc tuyệt vời. Tuy nhiên, theo ông Nga có rất ít tư liệu nói về việc xây dựng ngọn tháp đá nơi thờ Hòa thượng Chuyết Chuyết. Ngọn tháp trông như cây bút khổng lồ vươn thẳng lên trời. Theo đo đạc, tháp cao 13,5m với kết cấu 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh. Ở bên ngoài tầng đáy rộng hơn với mái hiên nhô ra; 4 tầng bên trên gần như giống nhau với mỗi cạnh rộng 2m.
Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Trong lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29m. “Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của tòa tháp có 13 bức phù điêu chạm đá các con thú”, ông Nga cho biết.
Theo đánh giá của các nhà điêu khắc, tháp Báo Nghiêm thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của nghệ nhân thời xưa. “Tháp Báo Nghiêm là công trình kiến trúc độc đáo. Ngoài ý nghĩa Phật giáo, thì công trình thể hiện được tài năng và sự dụng công của nghệ thuật. Nhiều phù điêu, hình họa cách điệu tạo nên dấu ấn riêng duy chỉ có ở Bút Tháp. Nghệ thuật điêu khắc đá trên tháp Báo Nghiêm đã đạt đến trình độ rất tinh xảo. Đặc biệt là các hình rồng chạm nổi có thần khí vi diệu”, nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ nhận xét.
“Bút Tháp là quần thể di tích đẹp và ý nghĩa nhân văn cao. Ngoài công trình tháp Báo Nghiêm thì tòa “Cửu phẩm liên hoa” cũng vô cùng độc đáo. Tòa làm bằng gỗ cao 9 tầng và có thể quay được mà không phát ra tiếng động”, TS.Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh.
2. Dòng chữ tiết lộ niên đại tượng cổ
Rất nhiều nhà nghiên cứu dày công đi tìm nguồn gốc cũng như ý nghĩa của pho tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp. Thật bất ngờ, hai dòng chữ Hán khắc trên thành bệ pho tượng đã tiết lộ niên đại cùng những bí mật xung quanh pho tượng độc đáo này.
Hàng chữ Hán trên thành bệ cho biết niên đại và tác giả tạc pho tượng
Tác giả pho tượng
Sau một thời gian dài nghiên cứu, nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ nhận định: “Pho tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng ở chùa Bút Tháp chứa đựng nhiều “ẩn ngữ” cùng một triết lý sâu xa”. Pho tượng còn cho hậu thế biết nhiều nét về quan điểm thẩm mỹ, nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Việt thời Hậu Lê.
Đặc biệt, khi phát hiện trên thành bên trái bệ tượng khắc dòng chữ Hán: “Nam Đông Văn Thọ Nam - Trương tiên sinh - phụng khắc”. Các nhà Hán Nôm tạm dịch: Nam Đông là địa chỉ, Văn Thọ là tên hiệu, Trương là họ, tiên sinh là bậc trí giả, phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để thờ.Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu, thì chữ “phụng khắc” được dịch là khắc theo ý chỉ của nhà vua. Nhưng thông thường thời xưa, nếu phụng mệnh vua mà khắc thì tượng phải để ở kinh đô, trong khi pho tượng này lại được thờ ở một ngôi chùa.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nghi, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã khảo sát khoảng 24 văn bia tại chùa Bút Tháp cũng như dụng công khảo cứu gia phả họ Trương lưu giữ tại Viện Hán Nôm nhưng không thu được kết quả liên quan đến dòng chữ trên. Khi tìm về làng nghề chạm khắc truyền thống ở Hải Dương cũng không thấy có dòng họ này trong làng.
Vậy, phải giải mã dòng chữ này ra sao? Ông Nghi đặt câu hỏi: Nam Đông có phải là địa danh hành chính thời Lê? Và nếu đúng thì nay thuộc địa phương nào? Điêu khắc gia họ Trương phải chăng làm đến tước Nam (Công, hầu, bá, tử, nam)? Lấy hiệu là Văn Thọ?
Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa biết Nam Đông là địa danh ở đâu nên chưa có lời giải thỏa đáng. Vì thế, đa số chuyên gia mới chỉ tạm bằng lòng với đáp án: Điêu khắc gia họ Trương, hiệu Văn Thọ, làm đến tước Nam là tác giả của pho tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp.
Tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay
Niên đại tượng cổ
Còn một hàng chữ Hán nữa khắc trên chính diện thành bệ tượng, nội dung: “Tuế thứ Bính Thân niên thu nguyệt cốc nhật doanh tạo” cho biết pho tượng được hoàn thành vào ngày lành, tháng mùa thu năm Bính Thân. Vậy, năm Bính Thân cụ thể là năm nào? Theo ý kiến của nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng: “Năm 1647, Trương tiên sinh được mời làm tượng Phật ở chùa Bút Tháp. Kiến trúc chùa Bút Tháp cơ bản hoàn thành. Năm 1656, Trương tiên sinh hoàn thành tác phẩm tượng Quan Âm”.
TS Lịch sử Bùi Tiến cho biết thêm: “Dựa vào những nét nghệ thuật tương đồng với các bộ phận khác trong chùa, rõ nét hơn cả là rồng và cá giống hình tượng trên tháp Báo Nghiêm nên đa số các nhà nghiên cứu đều đồng ý niên đại của pho tượng là năm 1656”.
Để có thêm cơ sở khẳng định niên đại pho tượng cổ, các nhà nghiên cứu vừa qua đã căn cứ vào niên đại bức hoành phi “Sắc kiến - Ninh Phúc thiền tự” năm Dương Hòa thứ tám đời vua Lê Thần Tông (1642).
Được biết, đây là bằng chứng chùa Ninh Phúc được ban sắc lệnh xây dựng, tôn tạo từ năm này. “Thậm chí, chùa được trùng tu xong vào năm 1642 - 1643, tức 2 năm trước khi Chuyết Công (trụ trì đời thứ hai chùa Ninh Phúc) viên tịch. Như vậy, những năm Bính Thân phải là trước năm 1647”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nghi nêu giả thiết.
Trong khi đó, PGS.TS Đàm Chí Từ từng cho rằng, Ninh Phúc tự từng được trùng tu khoảng năm 1634 - 1635 và có thể, Thượng điện - Tam bảo được hoàn thành trước để Chuyết Công trụ trì hoằng pháp. Lập luận này được nhiều chuyên gia tán thành vì niên đại ghi trên bức hoành phi “Ngự chế - đại phùng bảo điện” năm 1642. Sau khi Chuyết Công viên tịch thì sư Minh Hành được truyền y bát, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc được trao chức Đạo trường mẫu.
Hắc Long tượng trưng cho cái ác
Ý nghĩa pho tượng
Nhà điêu khắc, họa sĩ Lê Đình Quỳ nhận định: “Rất hiếm người hiểu toàn vẹn ý nghĩa sâu xa và đẹp đẽ của tác phẩm tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Bởi vì ẩn trong đó không chỉ là giá trị hội họa mà còn là những nghĩa lý Phật giáo sâu sắc, kỳ ẩn. “Tượng Quan Âm Bồ Tát thiên thủ thiên nhãn - dân gian gọi là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, có thể xem là một vũ trụ thu nhỏ, được sáng tác theo hệ thống quy luật chặt chẽ. Đó là những quy luật âm dương ngũ hành và bát quái, luôn bao hàm các cặp phạm trù đối lập nhưng thống nhất”, nhà điêu khắc, họa sĩ Lê Đình Quỳ cho biết.
Ông Quỳ cho hay, pho tượng được làm theo thế tam tài giả, tức là mối quan hệ tổng hòa thiên - địa - nhân. Vòng tròn phía sau được gắn gần một nghìn bàn tay, trong mỗi bàn tay được khắc một con mắt, đó là biểu tượng của Trời. Trời theo quan niệm ở đây là vũ trụ thu nhỏ. Trong vũ trụ, cái thiện được biểu tượng ở thế “tam quang giả”, là 3 cái sáng, gồm: mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Ở pho tượng này, tác giả cũng đặt mặt Quan Âm vào trung tâm của pho tượng.
Mặt trời là mặt Phật Quan Âm nổi bật, sáng ngời, đầy vẻ từ bi hỉ xả. Mặt trời ở đây được thể hiện là bình minh, những tia sáng chiếu tỏa lên trên chứ không tỏa ngang, ý nói: Cái thiện là thế đang đi lên, có sức mạnh chiến thắng.
Mặt trời sáng ngời còn là biểu tượng cho trí tuệ đức Phật Quan Âm đi khắp muôn phương xua tan bóng tối. Những kẻ có hành vi ám muội cũng không thể che nổi mắt Phật. Để diễn tả thâm ý, tác giả đã khắc con mắt trong lòng bàn tay biểu tượng cho hàng nghìn vì sao trong thiên hà.
Tất cả con số trên pho tượng đều là số lẻ, hơn 900 bàn tay và hơn 900 con mắt. Tác giả cho rằng số 1.000 là số chẵn, âm, tĩnh, không phát triển. Số lẻ, dương, động và phát triển không ngừng. Điều đó có nghĩa là trong vũ trụ có vô vàn vì sao đang quan sát trần gian.
Con rồng đen dưới tòa sen là Hắc Long dưới Biển Đông, tượng trưng cho cái ác. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ngồi trên tòa sen, cả tòa sen lại đặt trên đầu con rồng đen, tượng trưng cho cái thiện bao giờ cũng ngự trị cái ác.
3. Sách đồng 356 năm tuổi
Đương lúc tiến hành trùng tu tôn tạo ngọn tháp Tôn Đức thì nhà chùa và họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng đã phát hiện ra một bảo vật vô giá ở chùa Bút Tháp (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Đó là 2 cuốn sách bằng đồng xếp chồng trong một bọc giấy dó.
Am Tích thiện
Tôn Đức tháp cổ
Nhà nghiên cứu Phạm Tuấn, Viện nghiên cứu Hán Nôm cho biết, nằm trong quần thể cổ tích danh lam chùa Bút Tháp, tháp Tôn Đức được dựng sau khi sư Minh Hành viên tịch vào tháng 3-1659. Một năm sau, vào ngày rằm tháng 11, được vua Lê ban sắc chỉ và Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, đạo hiệu là Pháp Tính hưng công, ngọn tháp được tạo dựng để an táng xá lị cho vị trụ trì.
Tháp này gồm 5 tầng, các tầng trên có hình chữ Phật cùng dòng chữ “Tôn Đức tháp”. Tầng dưới cùng là hệ thống các bài văn trong các giai đoạn về sau khi trùng tu thiền tự, được các đệ tử khắc thêm. Tầng thứ ba là bài văn ghi lại con người và hành trạng của sư Minh Hành. Theo đó, vị thiền sư này họ Hà, người huyện Hu Giang, phủ Kiến Xương (Giang Tây, Trung Quốc). Ông cùng thầy là Chuyết Công, vị Tổ khai sáng dòng Lâm tế Đại Việt.
Năm 1644, Chuyết Công viên tịch, Minh Hành kế đăng trụ trì và tiến hành xây dựng trên cơ sở tiền tài của các hoàng thân, quận công con vua phủ chúa. Đệ tử của Minh Hành có Chân Trụ sau là trụ trì chùa Hoa Yên (Quảng Ninh) cũng lập một tháp đá thờ vọng thầy.
“Tháp Tôn Đức ngay chân chùa Hoa Yên đến nay vẫn còn, trên tháp có khắc bài văn nội dung giống với bài văn khắc trên tháp Tôn Đức chùa Bút Tháp”, nhà nghiên cứu Phạm Tuấn cho biết. Họa sĩ, nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ đánh giá: “Tháp Tôn Đức tuy không cao, đẹp, tỉ mỉ như tháp Báo Nghiêm, nhưng ý nghĩa lịch sử và giá trị mỹ thuật cũng đáng để nghiên cứu nhằm soi tỏ những bí mật thuở xưa”.
Sách đồng chùa Bút Tháp có niên đại năm 1660
Sửa tháp thấy bảo vật
Ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh cho biết: “Trong khi tiến hành trùng tu tòa tháp đá cổ nằm phía sau nhà tăng, sư trụ trì và họa sĩ Phan Cẩm Thượng đã bất ngờ phát hiện 2 cuốn sách bằng đồng khắc chữ Hán rất đẹp. Lập tức, 2 cuốn sách đồng đã được lập biên bản và mời các chuyên gia về di tích, cổ vật đến để tham vấn”.
Theo ông Nga, mỗi cuốn sách có kích thước 14,4cm x 24,5cm khắc chìm chữ Hán rất đẹp và rõ nét ở cả hai mặt. Hai cuốn sách đồng có tổng 56 trang và nặng hơn 30kg. Đây là 2 quyển sách đồng đóng quyển, mỗi quyển được đóng bằng 3 khuyên tròn. Các chuyên gia bước đầu nhận định 2 quyển sách ghi nhiều thần chú ngữ trong nhiều bản kinh dùng trong các thời khóa tụng hành trì của chư tăng nhằm cầu vãng siêu trong tương quan Thiền - Tịnh - Mật của Phật giáo Lâm tế Đại Việt thế kỷ 17.
Ông Lê Viết Nga cho biết: “Trước sức ép phải hoàn thành việc phục chế 2 cuốn kinh cổ trong thời gian 60 ngày, các chuyên gia đã tìm khắp làng nghề đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) và phố Hàng Đồng (Hà Nội) để mua nguyên liệu. May mắn là đã tìm được một cửa hàng ở phố Hàng Đồng có bán lá đồng dày 1mm đáp ứng được yêu cầu”.
Tìm mua được nguyên liệu đã khó, việc phục chế còn khó hơn nhiều lần như việc làm cũ những lá đồng tương ứng như những trang sách cổ, cho đến tìm người khắc chữ. Để có được “màu thời gian” như cuốn sách cổ, các chuyên gia đã phải dùng nước chè cùng một số thủ pháp dân gian của các nghệ nhân làng đúc đồng để tạo màu cho các lá đồng mới sang màu cũ kỹ mà tuyệt nhiên không sử dụng đến nước muối và hóa chất để tránh bị ăn mòn.
“Sau khi phục dựng bản sao cuốn kinh cổ hoàn tất, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã trả lại bản gốc cho nhà chùa. Đồng thời, cũng giao cho Ban Quản lý di tích tỉnh kết hợp với địa phương và nhà chùa bàn bạc tìm biện pháp an toàn nhất để lưu giữ 2 cuốn sách quý này”, ông Nga cho hay.
Ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh
Nội dung trong sách cổ
Nhà nghiên cứu Phạm Tuấn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm chia sẻ: “Tuy 2 cuốn sách đồng cổ đã được trả về an tọa trong tháp, nhưng các vấn đề liên quan đến nội dung vẫn chưa được giới thiệu rộng rãi”. Cuốn thứ nhất có 23 trang, bìa ghi tên “Đại phương Quảng Phật hoa nghiêm kinh Hải hội Phật”. Thực ra đây được cho như tên của sách nhưng bản chất câu này là một lời chú niệm trong hành trì khi tụng kinh “Đại phương Quảng Phật hoa nghiêm kinh”.
“Cũng giống như nhiều văn bia, kinh sách Phật giáo trong cùng giai đoạn Lê Trung Hưng, văn bản sách đồng mở đầu dùng 4 câu: “Hoàng đồ củng cố/Đế tạo hà xương/Phật nhật tăng huy/Pháp luân thường chuyển” để ca ngợi đất nước, đạo của vua rồi mới đến Phật pháp”, ông Tuấn cho biết. Phần tiếp theo của sách là ghi chép cho người được an táng trong tháp là thiền sư Minh Hành, cùng các chú ngữ dùng trong hành trì Mật giáo. Cuốn sách này được các nhà nghiên cứu xác định có niên đại khắc đời Vĩnh Bảo (1660).
Quyển thứ hai có 33 trang đủ các phẩm chương. Từ đầu đến cuối sách theo đúng cách đọc cổ từ phải sang trái. Mở đầu sách là các bài tán tụng dâng hương và bài nguyện mở kinh. Tiếp theo là tên sách, ghi rõ: “Kim cương bát nhã ba la mật kinh” được dịch bởi Diêu Tần tam tạng pháp sư. Cuốn này từ đầu sách đã ghi rõ người khắc là Chân Khả. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu dù rất dụng công nhưng đến nay chưa có đủ tư liệu về hành trạng của người này.
Chùa Bút Tháp không chỉ là cổ tích danh lam mà còn ẩn chứa nhiều bí mật lịch sử
Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở nước ta từng tìm được một số cuốn sách đồng như cuốn “Cầu Không từ ký” ở Cầu Không (Hà Nam); cuốn sách đồng ở Đông Lao (Hoài Đức, Hà Nội); 4 cuốn sách đồng thư triều Nguyễn ở Quảng Nam và cuốn sách đồng làng Mai Phúc xã Ngọc Thụy (Gia Lâm, Hà Nội).
Bình Luận Bài Viết